Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2008

Bức thư mật liên quan đến hồ chí minh



Giọng đọc : Huyền Thoại



Bức Thư Mật liên quan đến cuộc đời của Hồ Chí Minh
(Lưu giữ tại văn phòng Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam)




Cao Bằng ngày 29 tháng 7 năm 1983.

Kính gởi Ông Nguyễn hữu Thọ Chủ tịch quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tôi là một thương binh đã 25 năm nay vô cùng đau khổ, không dám hé răng với ai. Không phải chỉ vì vết thương bom đạn, chiến tranh mà là một vết thương lòng vô cùng nhức nhối. Nay tôi sắp được từ giã cái xã hội vô cùng đen tối này đi sang thế giới khác, tôi phải chạy vạy rất khó khăn mới viết được bức thư này lên Chủ tịch, hy vọng ông còn lương tri, lương tâm đem ra ánh sáng một vụ bê bối vô cùng nghiêm trọng tàn ác, mà người vợ chưa cưới của tôi là một nạn nhân. Nay tôi hy vọng những tên hung thủ được lột mặt nạ trước công chúng, không để cho chúng ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.

Nguyên từ năm 1954 tôi có người yêu tên Nguyễn thị Vàng, 22 tuổi quê làng Hà Mạ, Xã Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Cô Vàng có người chị họ là Nguyễn thị Xuân, tên gọi trong gia đình là cô Sang tức Minh Xuân. Tôi nhập ngũ đi bộ đội cuối năm 1952. Cô Vàng và cô Xuân tình nguyện vào công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhụ. Ðược mấy tháng sau ông Trần Ðăng Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần mấy lần đến gặp cô Xuân. Ðầu năm 1955 thì đem xe tới đón về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ. Ðược mấy tháng sau thì cô Xuân cũng xin cho cô Vàng về Hà Nội, ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm với cô Xuân và cô Nguyệt con gái ông Hoàng văn Ðệ cậu ruột cô Xuân.

Ðã luôn 2 năm tôi chỉ được tiếp thư chứ không được gặp cô Vàng, người yêu của tôi. Nhưng khoảng tháng 10 năm 1957 tôi bị thương nhẹ được đưa về điều trị tại bệnh viện Huyện Hoà An. Chúng tôi vô cùng sung sướng lại được gặp nhau. Trong một tuần lể cô Vàng kể lại mọi nỗi đau xót cô đã gặp phải cho tôi nghe. Tôi xin ghi lại tỉ mỉ những lời cô Vàng tâm sự với tôi, mà không bao giờ tôi có thể lãng quên đi được. Vàng kể:

Ðầu năm 1955 cô Xuân được về gặp Bác Hồ. Bác Hồ định lấy cô Xuân làm vợ chính thức. Mấy tháng sau chị Xuân xin cho em cùng về ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, Hà Nội. Còn tầng dưới thì cho ông Nguyễn Quý Kiên, Chánh văn phòng Thủ tướng phủ ở. Vì các lãnh đạo không cho chị Xuân cùng ở với Bác trên nhà chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn,

B ộ trưởng bộ Công an trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về ở 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của Công an.

Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một cậu con traị Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Em có nhiệm vụ bế cháu. Ông Bộ trưởng Công an có nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên thường đến luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, ông Hoàn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rồi nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ, định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, lão Hoàn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to: “Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết” rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.

Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói: Ðau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Từ hôm chị mới về nhà này, có một bà già độ 60 tuổi ở một buồn dưới nhà, vợ một cán bộ Công an đã chết, lên thân mật nói chuyện với chị rằng: Sao cô ở đây một mình? Bạn đàn bà để tôi nói thật cho cô biết. Cái lão đem cô về đây là một tên côn đồ lưu manh, dâm ô tàn ác vô kể. Tôi xin kể một vài chuyện cho cô nghe. Ông Lương Khánh Thiện, một Uỷ viên Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Ðường, vợ anh Thiện đem con gái gởi bác Hoàn nhờ bác tác thành cho. Lão Hoàn đã hiếp nó, nó chửa rồi chọn một tên lưu manh vào làm Công an để gả cô Bình làm vợ. Lão lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ Công an nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu.

Nghe chuyện đó chị cũng khủng khiếp, nhưng lại nghĩ là nó đối với mọi người khác, còn đối với mình thì nó đâu dám. Nhưng chỉ được mấy hôm sau chị nghe tiếng giầy đi nhè nhẹ lên gác, chị chạy ra thì thấy nó đi lên nhếch mép cười một cách xõ lá. Nó chào chị rồi đi thẳng vào nhà, nó ôm ghì lấy chị vào lòng rồi hôn chị.

Chị xô nó ra nói:
“Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước”.
Nó cười một cách nhạo báng:
“Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh bà nằm trong tay tôi”.

Rồi nó lại nói: “Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ý. Và tôi nói cho bà biết cụ già nhà bà cũng không ngoài tay với của tôi”.

Rồi nó rút khẩu súng lục dí vào ngực chị.
Chị ngồi xụp xuống ghế nói:
“Anh cứ bắn đi”.
Nó cười khì khì :
"Tôi chưa dại gì bắn. Tôi tặng bà vật khác".
Nó dắt súng vào túi quần rồi rút ra một sợi dây dù to bằng chiếc đũa, đã thắt sẳn một cái thòng lọng. Nó quàng cái tròng vào cổ chị rồi kéo chị đi lại cái giường kia, đẩy chị nằm xuống, rồi đầu sợi giây nó buộc vào chân giường. Chị khiếp sợ run như cầy sấy.

Nó nói “Bây giờ bà muốn chết tôi cho bà chết“. Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống nó ngắm nghía ngâm nga:

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Phẩm tiên đã đến tay phàm,
thì vin cành quýt cho cam sự đời.

Rồi nó nằm đè lên hiếp chị. Chị xấu hổ lấy tay che mặt.

Nó kéo tay chị nói: “Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già mà còn vờ làm gái “.

Xong nó cởi thòng lọng cho chị, rồi nó ngồi bên chị tán tỉnh hàng giờ:
"Anh thương em lắm. Người ta gặp hạnh phúc phải biết hưởng hạnh phúc. Nếu em thuận tình thì muốn gì cũng có.
Nó đeo vào tay chị một chiếc nhẫn vàng, chị đã ném vào nhà xí.
Nó lại dặn: “Việc này phải tuyệt đối bí mật, nếu hở ra thì mất mạng cả lũ và tôi nói cho cô biết ông cụ tin tôi hơn cô" .

Rồi từ đó chị biến thành một thứ trò chơi của nó. Thấy bóng dáng nó chị như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mâỵ Nó muốn làm gì thì tuỳ ý nó. Trong mấy tháng trời chị tính quẩn lo quanh, không biết tâm sự với ai mà không làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nó. Nhớ lại lời nói của bà già, chị liền xin bác cho hai em về đây, mong tránh được mặt nó. Nhưng những hôm Công an gọi các em đi làm hộ khẩu, đi làm chứng minh thư lâu hàng buổi là nó tới hành hạ chị. Nó bảo chị phải nói cho hai em biết. Phải biết câm cái miệng nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Hôm nay nó lại đây trắng trợn như vậy vì nó tưởng chị đã dặn hai em rồi. Bây giờ việc đã xẫy ra chị thấy rất nguy hiểm.

Em nói: “Hay là chị em ta trốn đi”.
Chị Xuân nói: “Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai”.

Bác nói: “Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa”.

Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: “Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không?”.
Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu”.
Bác nói: Không nhẽ ông Bộ Trưởng Công an nói dối.

Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vu gì đó để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta.

Chị Xuân lại nói: “chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị”.
Em thấy nguy hiểm vì tên Hoàn đã nổi tiếng ở Bộ Công an là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác. Ðến độ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đị Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên Công an Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho Chị Nguyệt, ra lên xe Công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên một phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người: Công an, Tòa án, Kiểm sát viên.

Sau một tiếng, hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi thân thể không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì. Da dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nức. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Ðây là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng.

Em vô cùng đau khổ chạy về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. May lại được gặp anh kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết được vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít hôm họ tuyên bố em bị thần kinh được chuyển về điều trị tại Hoà An.

Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 cô Vàng đi về thăm ông cậu Hoàng văn Ðệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em tôi quăng xác xuống sông Bằng Giang đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng sốt chạy về cầu Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồị Nghe dư luận xôn xao bị đánh vở sọ, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Tôi đâm bổ về Hà Nội liên lạc được với một cậu bạn cùng học làm việc ở Toà án Hà Nội. Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi một bản Công Văn Viện Kiểm sát hỏi toà án về vụ em tôi và cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện việc điều trạ Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân, vợ cụ Hồ Chí Min h, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở Trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây.

Mấy chục năm nay tôi tim gan thắt ruột, nghĩ cách trả thù cho em tôi nhưng sức yếu thế cơ đành ngậm hờn chờ chết. Theo Vàng dặn lại, tôi liên hệ với một số cán bộ về hưu Công an, kiểm sát họ cho tôi biết cậu Trung ngày đó đã được đưa về cụ Bằng nuôi. Ðộ 4, 5 tuổi thì gửi cho Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969 ngày Bác Hồ mất thì giao cho ông Vũ Kỳ, nguyên Thư Ký của Bác, nay là Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ chí Minh làm con nuôi. Vũ Kỳ có 2 con đẻ là Vũ Vinh và Vũ Quang, còn Vũ Trung là con nuôi; là con chị Xuân với Bác Hồ. Tôi một thương binh sắp đi qua thế giới khác, máu hoà nước mắt viết thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gởi tới trình ông. Mong ông lưu ý xét cho mấy việc:

1- Các ông sẵn lòng bảo vệ chân lý điều tra cho ra những đứa thủ mưu, thủ ác, chứ không truy xét những người có lương tâm phát hiện lũ tàn ác.

2- Ở xã Hồng Việt bà con bạn hữu chị Xuân vào trạc tuổi 45 trở lên còn khá nhiều đều biết rõ ràng cô Vàng, cô Xuân, cô Nguyệt và chắc gia đình của cô Xuân còn khá nhiều di vật của cô Xuân. Nhưng tất cả mọi người đều khiếp sợ, không dám hé răng. Mong ông cho điều tra thận trọng, bí mật, vì việc điều tra này bị lộ thì cả lô bà con này bị thủ tiêu.

3- Cậu Nguyễn Tất Trung còn sống khoẻ mạnh nhưng việc điều tra lộ ra thì cậu cũng dễ dàng bị thủ tiêụ Tên hung thủ lái xe đón bà Xuân đi giết là Tạ Quang Chiến hiên nay là Tổng cục Phó Tổng cục Thể dục Thể thaọ Còn tên Ninh xồm thì chúng tôi không hiểu đã leo lên chức vụ nào rồi.

Từ thế giới khác kính chúc Ngài nhiều hạnh phúc.

Vợ chồng Nguyễn thị Vàng

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2008

Sự Tích Con Yêu Râu Xanh - Bài 1






Chủ quan và khách quan



Tôi tự nhận cũng như luôn luôn giữ quan điểm khi xem xét hoặc phân tích các hiện tượng xã hội ở Việt Nam, đã và đang dưới sự thống trị của tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản, bằng lăng kính chủ quan. Nghĩa là, bằng mắt tôi thấy; bằng tai tôi nghe; bằng óc tôi nhận xét và phân tích; bằng khả năng ngôn ngữ của tôi để diễn đạt. Đặc biệt, khi nghe ai nói, tôi cũng hỏi cặn kẽ để biết nguồn tài liệu có đáng tin không; bao nhiêu là thực, bao nhiêu là giả.

“Tại sao không khách quan?” Xin thưa rằng: Tình hình xã hội Việt Nam từ ngày tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản Việt Nam, mà khởi đầu là Hồ chí Minh, đặt ách thống trị thì chỉ có hai cách nhìn. Một là của đại đa số nhân dân Việt Nam bị tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản Việt Nam đặt ách thống trị; và cách nhìn thứ hai là của tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản Việt Nam, do chính chúng diễn đạt hoặc chỉ đạo cho tay sai diễn đạt. Không thể nào có cách thứ ba, hay gọi là khách quan. Bởi vì thực tế lịch sử đã cho thấy: Tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản trong mọi việc đều suy nghĩ và hành động theo chủ quan của chúng. Còn người dân bị trị, giác ngộ thân phận của mình cũng suy nghĩ và hành động theo chủ quan của mình. Một bộ phận nào đó trong nhân dân (tỷ lệ nghịch với thời gian), thoạt đầu có thể chiếm khá đông, do nhiều nguyên nhân như bị tuyên truyền bịp bợm của cộng sản, do thiếu thông tin v.v… nên mơ hồ quyền lợi và thân phận. Cách nhìn của bộ phận đó được gọi là khách quan, nhưng thực ra nó ngả về phía của tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản và nó thường được sự đồng tình của tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản giống cái gọi là thành phần thứ ba (3) ở miền Nam trước tháng 4-75 vậy. Một thí dụ của cách nhìn đó là việc nhận định: “Hồ chí Minh có công đánh thực dân, đế quốc, tuy nhiên cũng có tội du nhập chủ nghĩa cộng sản”. Nói vậy là mơ hoà, là ngụy biện. Không thể tách công và tội ra được, vì đây là hai mặt của một vấn đề. Phải tự hỏi: “Tại sao phải đánh thực dân đế quốc?” Trả lời: “Là để khỏi bị áp bức, bóc lột, được tự do, hạnh phúc.” Cho nên nếu đánh thực dân, đế quốc mà còn bị áp bức, bóc lột, mất tự do và bất hạnh hơn, thì đánh làm gì! Đi buôn mà lỗ thì chỉ có tội, làm gì có công!!! (Chẳng lẽ ghi công làm sổ sách cần mẫn, họp hành tiệc tùng không mệt mỏi hay sao?!) Chính Hồ chí Minh rất ma giáo nên cũng nêu lên những ý thật là chí tình để dụ khị mọi người và che bộ mặt thật là “lưu manh chính trị” của hắn. Hồ đã nói rằng độc lập mà không có tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì. Như vậy, nếu theo Lữ Phương, rằng Hồ đã có công “… tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập, thống nhất (sic); ta cứ tạm coi như là thực sự có độc lập, thống nhất đi. Nhưng tự do rõ rệt vẫn chỉ là cái bánh vẽ vĩ đại biểu hiện rõ nhất trong điều 4 hiến pháp và nghị định 31/CP của chúng, thì, như cách Hồ lý luận: “cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Làm một công việc “chẳng có ý nghĩa gì” mà lại coi là “có công” thì đúng chỉ có cái đầu kiểu Lữ Phương mới “khách quan” kết luận như vậy – Kiểu viết lách như thế là kiểu viết loạn cào cào nhằm lách cái chất nịnh hót, bợ đỡ mà thôi.

*****

Vài nét về con người Hồ chí Minh của Lữ Phương

Trong đề cương “Huyền thoại Hồ chí Minh” Lữ Phương vội khẳng định rằng: “Một cái nhìn công bằng là một cái nhìn hiện thực về nhân vật lịch sử này” (tức nhân vật Hồ chí Minh).

Như lời giới thiệu, của “Nhóm Nối Kết”, thì bài này của Lữ Phương được: “gửi đến các bạn, đặc biệt các bạn trẻ”. Cho nên Lữ Phương khôn ngoan dùng cụm từ “nhìn công bằng” để nhử những người trẻ tuổi là tầng lớp chưa va vấp với đời, thích công bằng (nhất là tuổi trẻ ở hải ngoại có ưu điểm chấp nhận tự do tư tưởng, ghét sự áp đặt hoặc độc quyền chân lý).

Vậy cái công bằng của họ Lữ về Hồ chí Minh là gì? Họ Lữ viết: “Hồ chí Minh là một nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20. Ông đã lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ, chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” ở Việt Nam!”

Họ Lữ mô tả về Hồ: “Cái cốt cách thanh thoát mờ ảo ấy thật ra cũng đã toát ra từ chính con người của ông: với khuôn mặt xương xương, dáng người gầy, mới 50 tuổi đã để râu dài, ông có vẻ xuất thế hơn rất nhiều so với một số lãnh tụ công sản châu á khác như Mao trạch Đông chẳng hạn. Hình ảnh xuất hiện chính thức của ông trước công chúng do vậy ngoài một lãnh tụ cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba, còn là một hiền triết phương Đông”.

Họ Lữ tiếp tục nâng bi họ Hồ: “Từ một người anh hùng giải phóng dân tộc, ông trở thành một ông tiên trong các truyện thiếu nhi, một nguồn cảm hứng vô tận để hình thành những bài tụng ca, và hơn nữa, còn là hình tượng của người đi cứu độ chúng sinh nữa. Sau 1975, tôi thấy người ta đã dựng bàn thờ của ông ngay giữa bùng binh Sài-gòn, khói hương nghi ngút. Ngày nay nhiều nơi vẫn giữ thói quen này, không phải chỉ riêng ông (nhiều liệt sĩ cộng sản đã thành thần trong các miếu, các đền).”

Tiếp theo đó, họ Lữ bó buộc phải điểm lại một số bê bối, nhăng nhít của họ Hồ (cho ra vẻ công bằng và khách quan). Sợ tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản hiểu lầm là Lữ phạm thượng, nên họ Lữ vội viết tiếp rằng: “Những chuyện tình nói trên, hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục” (nghĩa là họ Lữ cho rằng họ Hồ bị bôi nghọ nên hắn không tin). Rồi để khẳng định với quan thầy mafia cộng sản cái tinh thần nâng bi, họ Lữ viết toạc móng heo quan điểm của hắn về hành động điếm đàng, bê bối của họ Hồ, rằng: “Nhưng xét về mặt đạo đức cá nhân thật ra chẳng có gì quan trọng lắm”. Đây cũng là ý đồ của họ Lữ muốn gửi lên quan thầy mafia cộng sản đương quyền của hắn, rằng Hồ có đụ bậy, giết người diệt khẩu v.v… cũng chẳng sao về mặt đạo đức, thì đương nhiên loại đụ bậy, tham nhũng, sát nhân Đỗ Mười, Lê đức Anh, Lê khả Phiêu, Võ văn Kiệt, Đào duy Quát (con của Đào duy Tùng), Nguyễn khoa Điềm, Phạm thế Duyệt… qua lăng kính của Lữ, chúng vẫn đạo đức sáng ngời.

Tôi chưa từng biết Lữ Phương, nhưng các cụ nhà ta dạy rằng “văn là người”, nên có thể nói rằng: Lữ Phương là tên điếm chữ nghĩa có hạng đấy. Này nhé, nhận xét về việc thờ cúng họ Hồ và những tên mafia cộng sản khác, về thời điểm thì nói là sau 1975, nghĩa là sau cái ngày đệ tử của Hồ, đã xâm lăng miền Nam và đặt xong ách thống trị, đẩy nhiều triệu người phải bỏ nước ra đi, đưa hàng triệu người đi tù không xét xử, giết hại và cướp bóc tài sản của nhân dân, dân phải đi làm sưu dịch còn nặng hơn bọn Tô Định thời Bắc thuộc, thế mà Hồ vẫn được người ta thờ phụng. Họ lữ mập mờ không nói rõ cho “các bạn trẻ” biết rằng việc dựng bàn thờ họ Hồ có từ thời Hồ còn sống. Hắn và cái tổ chức mafia của hắn đã đẻ ra cái trò này chứ không phải là nhân dân tự nguyện (tức người ta) như họ Lữ sử dụng cụm từ “người ta” (tức nhân dân). Miền Bắc trước đấy và miền Nam sau này, hẳn ai ai cũng nhớ là công an hộ khẩu kiểm tra từng gia đình, nhà nhà phải có ảnh họ Hồ và thờ hắn, nếu không sẽ bị công an ghi sổ đen là “phản động”. Đểu giả hơn nữa, họ Lữ còn dám viết rằng ngày nay (tức là thế kỷ 21), nhiều nơi vẫn giữ thói quen này, nghĩa là theo cách “nhìn công bằng và khách quan” của họ Lữ thì: Người dân miền Nam, sau 1975, đã tự nguyện dựng bàn thờ để thờ Hồ. Sự tự nguyện đó đã trở thành thói quen (nghĩa là tập quán, là đời sống văn hóa, tâm linh của nhân dân) cho đến ngày nay, chứ không phải do chủ trương của tập đoàn mafia cộng sản áp đặt. Nâng bi họ Hồ chưa đủ, Lữ Phương lại còn khéo léo nhắn nhủ với tập đoàn mafia cộng sản về tinh thần khuyển mã của hắn khi viết rằng: “nhiều liệt sỹ cộng sản đã thành thần trong các miếu, các đền”. Những tên mafia cộng sản bị nhân dân Việt Nam giết trong cuộc xâm lăng, ăn cướp làm sao có thể gọi là liệt sỹ được?! Làm sao những tên cướp ngày đó lại có thể ngang hàng với các liệt sỹ dân tộc như Nguyễn Thái Học, Ký Con, Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu, Nguyễn Khoa Nam v.v… Làm ảo thuật về ngôn ngữ như thế sợ quan thầy còn mơ hồ nên dưới đó Lữ Phương phải lật bài tẩy khi viết: “Tính chất trong sạch lý tưởng, biết hy sinh vì nghĩa lớn của những người cộng sản theo con đường của ông hoàn toàn không phải chỉ là chuyện tuyên truyền”. Nghĩa là họ Lữ nịnh các đệ tử của Hồ trong ngụy quyền Hà-nội cộng sản đi theo con đường của ông (tức Hồ). Những tên xâm lược, giết hại dân lành (như vụ Tết Mậu Thân ở Huế chẳng hạn) được Lữ Phương nâng lên là “trong sạch lý tưởng, biết hy sinh vì nghĩa lớn”. Còn những quân nhân miền Nam chiến đấu để bảo vệ mảnh đất và lối sinh hoạt của miền Nam – là vùng lãnh thổ mà chính tập đoàn Hồ chí Minh đã hai lần ký kết cam đoan với quốc tế về sự phân chia đó thì bị tập đoàn mafia cộng sản và Lữ Phương gọi là ngụy, là phản động!!!

Lữ Phương khẳng định rằng những chuyện tình bẩn thỉu của họ Hồ là: “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục.”

Xin tạm nêu ra hai vấn đề để xem Lữ Phương có dám chơi bạo hòng biết hư thực ra sao. Đó là:

1) Có thể thử nghiệm DNA của Nông đức Mạnh, Nguyễn tất Trung (con của Hồ với cô Nông thị Xuân, nay Vũ Kỳ nuôi) và cô con gái của Nguyễn thị Minh Khai với DNA của Hồ để thấy kết quả khoa học ra sao, đã đủ thuyết phục chưa?
2) Họ Lữ táo tợn làm đề cương viết về Hồ chí Minh mà chỉ cần nêu ra hai dẫn chứng để thấy họ Lữ nông cạn thông tin về họ Hồ và tập đoàn của hắn đến mức nào. Trong hồ sơ lưu trữ của ban chấp hành đảng cộng sản Nga-xô, có lưu giấy hôn thú giữa Hồ và Nguyễn thị Minh Khai. Nhưng, tập đoàn mafia cộng sản cũng như họ Hồ đều duy trì trong dư luận nhân dân bằng giấy trắng mực đen hẳn hoi, rằng Nguyễn thị Minh Khai là vợ của Lê hồng Phong, đến mức khoảng năm 1990, tờ Sàigòn Giải Phóng còn đăng bài kêu gọi đoàn thanh niên cộng sản và giới chức cai trị cái đất Sài-gòn hãy giúp đỡ cô con gái của Nguyễn thị Minh Khai và Lê hông Phong (thực ra là của Khai và họ Hồ).

Tại sao Hồ và tập đoàn tay sai cố tình tạo ra sự ngộ nhận đó? Xin thưa rằng, sự thực của vấn đề đó như sau: Trước khi rời Việt Nam qua Nga-xô thì Nguyễn thị Minh Khai là hôn thê của Lê hồng Phong. Việc này đương sự có báo với trung ương cộng sản lúc đó. Thế rồi khi cả hai được triệu tập qua Nga-xô để học thì Lê hồng Phong đi trước, còn Minh Khai qua ngã Hồng-kông để được Hồ (dưới bí danh Lý Thụy) dạy vỡ lòng tiếng Nga và chính trị sơ đẳng để dễ dàng khi nhập học trường Đại học Phương Đông (Nga). Chẳng biết Hồ dạy Minh Khai học ra sao mà chữ chẳng vào “đầu” mà vào “đầy bụng”. Câu chuyện đổ bể khi Minh Khai tới Nga-xô nên Lê hồng Phong đành nuốt hận nghe lời lãnh đạo Nga-xô, nhường hôn thê cho Hồ và có giấy giá thú làm bằng để sau này Lê hồng Phong khỏi lôi thôi. Vì sự thiệt thòi đó và thái độ vâng lời cấp trên nên Lê hồng Phong được cho làm ủy viên dự khuyết trung ương quốc tế 3. Đó là nhân vật cộng sản Việt Nam duy nhất được giữ vị trí gọi là “lãnh đạo của cộng sản quốc tế”. Còn Hồ, thực ra chưa bao giờ là thành viên trung ương của cộng sản quốc tế. Hắn chỉ công tác ở Cục Phương Đông, là một bộ phận của quốc tế 3 mà thôi, giữ nhiệm vụ liên lạc giữa đảng cộng sản Đông-dương với quốc tế 3. Những lá thư của Trần Phú và Hà huy Tập gửi quốc tế 3 tố cáo hành vi cáo đội lốt hùm còn đó, ai cũng tham khảo được, chẳng biết họ Lữ đã cẩn trọng đọc qua chưa, trước khi múa bút, lè lưỡi bốc thơm họ Hồ. Câu chuyện tình bi ai giữa Hồ, Lê hồng Phong và Minh Khai được giữ bí mật ngay cả đối với các thành viên cộng sản Đông-dương. Bởi vì như trước đó ai ai cũng biết Minh Khai là hôn thê của Lê hồng Phong. Hồ là một tên gián điệp có năng lực của Nga-xô trong vùng Đông-nam-á; Minh Khai và Lê hồng Phong đang được đào tạo để thành “lãnh tụ” của cộng sản Đông-dương, tức đạo quân thứ 5 của Nga-xô tại Đông-dương. Nếu để lộ việc Minh Khai chửa hoang, Lê hồng Phong bị cắm sừng và họ Hồ là kẻ chuyên đụ bậy, kể cả vợ của đồng chí mình thì hậu quả sẽ như thế nào. Các cụ nhà ta xưa có dạy: Làm đĩ chín phương cũng phải để một phương lấy chồng”. Còn họ Hồ, kẻ được Lữ Phương tô vẽ nào là “anh hùng giải phóng dân tộc”, “lãnh tụ cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba”; nào là “ông tiên”; nào là “nguồn cảm hứng vô tận” v.v… đã quên lời các cụ dạy để cho con “lợn nọc” trong lòng dẫn dắt đến mức “đụ bậy cả mười phương”, già chẳng tha (như Trương thị Mỹ, Đinh thị Cẩn), trẻ chẳng thương (như cô bé 17 tuổi đưa cơm ở Pắc-bó); cô Nông thị Xuân mẹ của Nguyễn tất Trung, và ngay cả Nguyễn thị Minh Khai cũng bị họ Hồ phá trinh lúc mới có 21 tuổi, và v.v…)

Cuộc tình tay ba đó đã khiến Lê hồng Phong ngã ngựa. Chẳng là, sau khi được là ủy viên dự khuyết trung ương của quốc tế 3, Lê hồng Phong được Nga-xô chỉ định về làm tổng bí thư của đảng cộng sản Đông-dương (nghĩa là chẳng có bầu bán gì). Khi ấy Hồ là phái viên của cục Phương Đông, nên trước khi đáp tàu thủy về Chợ-lớn (Sài-gòn) giả dạng trong vai thương gia người Tàu, Lê hồng Phong phải ghé qua Thượng-hải (Tàu) để nghe Hồ báo cáo tình hình ở Đông-dương lúc đó, cách thức đi cũng như mật khẩu bắt liên lạc với trung ương cộng sản Đông-dương. Chuyện đó chỉ có Lê hồng Phong và Hồ biết với nhau, vậy mà Lê hồng Phong vừa bước chân tới Chợ-lớn đã bị mật thám Pháp thực dân bắt. Nhớ lại vụ Hồ bán cũ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp thì tình huống vụ Lê hồng Phong cũng như vậy. Nghĩa là Hồ tìm mọi cách mượn tay thực dân Pháp hãm hại tất cả những ai là đối thủ quyền lực hơn Hồ, trong con mắt của quốc tế 3. Đối với Lê hồng Phong, Hồ còn sợ với chức vụ ủy viên dự khuyết trung ương quốc tế 3, kiêm nhiệm tổng bí thư đảng cộng sản Đông-dương, Lê hồng Phong với cái hận Hồ cắm cho cặp sừng dê trong vụ Minh Khai, thế nào cũng chờ dịp “thiến sống” họ Hồ, vì vậy Hồ ra tay trước. Và, vì toàn đảng cộng sản Đông-dương đều biết Minh Khai là hôn thê của Phong, cho nên khi cả Minh Khai và Phong bị thực dân Pháp tử hình thì Hồ cứ duy trì cái chuyện Khai là hôn thê với Phong và có con gái với Phong. Nhờ có tờ hôn thú giữa Hồ và Minh Khai tìm được trong kho lưu trữ của trung ương cộng sản Nga-xô sau khi chế độ Xô-viết ở Nga sụp đổ, mà Hồ bị lật mặt nạ. Chỉ có Lữ Phương, nguyên thứ trưởng văn hóa bù nhìn do ngụy quyền mafia cộng sản nặn ra, một “trí thức yêu nước” trốn ra bưng với mafia cộng sản, cũng như các loại trí thức, theo định nghĩa và so sánh của Mao trạch Đông, là vẫn thấy Hồ là “ông tiên”, là “hiền triết phương đông” mà thôi. Chẳng biết Lữ Phương có được xem tấm hình “ông tiên” của Lữ Phương, trước ngày xuống địa ngục, đã bị KGB chụp được, đang đi dạo trong phủ toàn quyền cũ với cô con gái Tây lai của Hồ, tên Louis Daguière không, từ Pháp sang kia đấy, trong lúc cô con của Hồ với Nguyễn thị Minh Khai vẫn phải đơn côi ở Hải-phòng?(!)

Dẫn chứng thứ hai là Lữ Phương tự “tấn phong” cho bác sỹ Trần duy Hưng là “bí thư thành ủy Hà-nội”. Viết về Hồ mà còn lẫn lộn về những nhân vật xung quanh Hồ thì quả là đại liều mạng như Chí Phèo vậy. Trần duy Hưng là chủ tịch Hà-nội kiêm thường vụ thành ủy Hà-nội. Nhưng cả hai chức vụ đều là “làm kiểng” cho thủ đoạn chính trị của ngụy quyền Hồ chí Minh, nghĩa là mượn cái danh “bác sỹ” của Hưng để cân đối với bác sỹ Trần văn Lai, thứ trưởng Hà-nội thời cụ Trần Trọng Kim. Gần như công việc chính yếu của Trần duy Hưng – với tư cách chủ tịch Hà-nội – là đi tiệc tùng, hiếu hỉ. Và, ở những nơi đó, Trần duy Hưng chỉ rình để gào lên “Hồ chủ tịch muôn năm” và “đảng Lao động muôn năm”. Thực chất công việc của Trần duy Hưng là hô khẩu hiệu ca ngợi Hồ mà thôi.

Lữ Phương có vẻ tự hào và nuối tiếc cái giai đoạn là “trí thức yêu nước” và “thứ trưởng văn hóa của chính phủ bù nhìn” do ngụy quyền Hồ chí Minh nặn ra ở trong bưng. Khổ quá, cái gọi là “trí thức yêu nước” đó là do tập đoàn mafia cộng sản phong cho theo cung cách của các cụ ta xưa nói là “xúi trẻ con ăn cứt gà sáp”, giống như kiểu “Việt kiều yêu nước” áo gấm về làng vậy. Còn cái chức thứ trưởng mới thảm hại nữa. Chẳng biết Lữ Phương có được phép biết rằng gần toàn bộ cái chính phủ bù nhìn đó đều được ra Hà-nội hết ăn rồi lại đánh bài, đánh bóng bàn, phơi nắng ở khách sạn Hoàn Kiếm, Hà-nội, tọa lạc chỗ ngã tư hai phố Phan Chu Trinh và Trần Hưng Đạo. Đủ mặt từ bộ trưởng tư pháp Trương như Tảng, bộ trưởng y tế Dương quỳnh Hoa, bộ trưởng ngoại giao Trần bửu Kiếm cũng như các vị Lâm văn Tết và bác sỹ Phùng văn Cung v.v… chứ lãnh đạo cái con khỉ khô gì đâu. Riêng luật sư Nguyễn hữu Thọ được ưu ái hơn nên được ở tòa vi-la tại phố Nguyễn Du, xưa kia là của nghệ sỹ cải lương Kim Chung, ngày ngày dạo phố hoặc lên khu Quảng Bá để nghe huấn thị. Còn vợ chồng Trịnh đình Thảo, ở một vi-la khiêm tốn hơn, gần hồ Thuyền Cương, ngày không mưa gió nắm tay nhau ra ngồi ghế đá, phơi nắng, nghe gió thổi để ngậm ngùi nhớ đến cái lúc được tự do có riêng một trang trại thuộc phần miền Nam Việt Nam, và được tự do đặt tên con đường trong trang trại là “đại lộ Hồ chí Minh”. óc cơ hội và sự mù quáng chính trị đã khiến sau tháng 4/75, cặp vợ chồng này bị đổ vỡ: bà ngả vào lòng một chú bé làm việc tại Sở Bưu điện Sài-gòn, còn ông cũng đành ôm một cháu gái khác để tranh thủ tự ban cho mình sự hưởng thụ hòng khỏa lấp cơn mơ tưởng mình là chính khứa lỗi lạc của Việt Nam! Tiếc thay, như các cụ ta xưa đã nói “thả mồi bắt bóng” và “trông gà hóa cuốc”!

Tập đoàn mafia cộng sản Hồ chí Minh là thợ lành nghề trong sản xuất bánh vẽ, vừa vĩ đại màu mè vừa hấp dẫn với những người trung hậu, thật thà cả tin. Chúng cũng là cao thủ của trò ảo thuật chữ nghĩa. Nhưng các cụ ta xưa đã dạy rằng: “ăn lắm mất ngon, nói lắm hóa nhàm” và “tinh ma chẳng qua lưới trời”. Cho nên, khi chúng từ chỗ đểu giả gọi những người tỵ nạn xâm lược của cộng sản là: “đĩ điếm”, “ngụy”, “phản cách mạng” v.v… để sau đó cho ra cụm từ “Việt kiều yêu nước” là cảnh “gay ông đập lưng ông” vậy. Bởi vì, nếu những người vì chống cộng, thấy được không thể cùng chúng đội trời chung nên phải ra đi sống đời lưu vong, nay được chính chúng thừa nhận là “yêu nước”, thì quả rõ ràng là chúng không yêu nước. Nói một cách khác, chúng là đạo quân thứ 5 của Nga-xô, chúng mang hình hài người Việt Nam chứ chúng không phải là người Việt Nam. Qua việc đảng kỳ của chúng (nền đỏ với búa liềm vàng) cũng là quốc kỳ của Nga-xô, đã bộc lộ rằng chúng là công dân búa liềm, nghĩa là một hình thức che đậy cái sự thực chúng là quốc tịch Nga-xô và vì Nga-xô mà thôi. Rút kinh nghiệm lịch sử của những kẻ xâm lược, đế quốc đỏ qua cái gọi là quốc tế cộng sản để tuyển mộ nhân lực của các nước, kết hợp chúng thành đảng cộng sản, cho nên mỗi đảng viên cộng sản là mỗi công dân Nga-xô. Và, đế quốc đỏ dùng lũ công dân Nga-xô mang hình hài Việt để giúp việc thống trị người Việt, khiến nhiều người Việt Nam, vì thiếu thông tin lại thêm thiếu xét đoán, phân tích nên ngộ nhận chúng là người Việt Nam. Cần nhớ là từ Hồ cho đến bọn Trần Phú, Hà huy Tập, Lê hồng Phong, Nguyễn thị Minh Khai v.v… đều có tên Nga, hoặc có bố nuôi là Nga như Võ nguyên Giáp, Văn tiến Dũng, Giáp văn Cương v.v…

Khoảng 1951, nghĩa là sau khi Trung cộng làm chủ lục địa, tướng La quý Ba và đặc biệt đại tướng Trần Canh của Trung cộng qua giúp Hồ trong cái gọi là “chiến dịch biên giới 1950” và sự tái xuất của tổ chức công dân búa liềm, dưới cái tên hiền lành là đảng Lao động Việt Nam, thì tập đoàn mafia cộng sản Hồ chí Minh đã âm thầm làm đảo chính để vô hiệu hóa Quốc hội Khóa 1 với thành phần của nhiều đảng phái, cá nhân không đảng phái và không cộng sản; lật đổ Chính phủ Liên hiệp, chỉ để lại vài bộ mặt bù nhìn hữu danh vô thực như Phan kế Toại, Bùi bằng Đoàn, Nguyễn văn Huyên v.v… làm lá chắn che đậy sự đảo chính bất hợp pháp của Hồ, để từ đó ngụy quyền cộng sản ra đời cùng Hồ, lèo lái đưa Việt Nam vào quỹ đạo thuộc địa của đế quốc đỏ và dùng nhân lực, tài lực Việt Nam vào nước cờ bành trướng của đế quốc đỏ. Và, năm 1959 là năm ngụy quyền Hồ chí Minh công bố hiến pháp mới, không qua trưng cầu dân ý, vì có nhiều điều khoản trái với Hiến pháp 1946 và bộc lộ sự vi phạm quyền lợi lâu dài của nhân dân và đất nước Việt Nam, càng chứng minh cái gọi là “chính quyền Hồ chí Minh” thực chất là ngụy quyền quân phiệt, vì hầu hết các bộ trưởng của Hồ là từ lò ngụy quân cộng sản mà ra, và cái ngụy quyền quân phiệt đó lúc nào cũng có nhiệm vụ “bảo vệ Liên-xô” như Hồ luôn nhắc nhở, ngay cả di chúc trước khi chết mà Hồ vẫn một lòng một dạ đi thăm Các-Mác và Lê-nin, chứ có đả động đến Tiền nhân nào của lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam đâu.

Sự Tích Con Yêu Râu Xanh - Bài 2





Quá trình tội ác của Hồ chí Minh
Thực chất của “ông tiên”, “hiền triết phương đông”, “anh hùng giải phóng dân tộc”, “lãnh đạo tầm cỡ quốc tế tài ba” của Lữ Phương là gì?

Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, trong lúc các vua quan đương chức, các nho sỹ, nông dân v.v… đều tổ chức chống Pháp liên tục cho đến 1945-46, rồi lại tiếp tục từ đó theo các phương thức khác nhau, thì, bố của Hồ xin được làm tay sai cho Pháp và Hồ được học ở Quốc Tử Huế. Chính là từ điểm xuất phát ở Quốc Tử Huế, “cậu ấm” Hồ chí Minh đã trổ mầm của giấc mộng làm “cha mẹ dân Việt Nam” (dân chi phụ mẫu). Bố Hồ, vốn tính hung hăng, rượu chè nên khi làm tri huyện Bình Khê (Bình-định), say rượu đánh chết dân lành bị kiện. Vì mới đặt ách đô hộ nên thực dân Pháp mị dân, cách quan của bố Hồ. Và, “cậu ấm” Hồ chí Minh bị đuổi khỏi Quốc Tử Huế, ngậm ngùi ôm giấc mộng “làm cha của dân” lang thang vào phía Nam. Cả hai cha con hổ thẹn đâu dám về quê nhà ở Nghệ-an.

Với hy vọng nếu sang mẫu quốc Pháp, bày tỏ tinh thần khuyển mã, chắc sẽ được trọng dụng. Cho nên chân ướt chân ráo tới cảng Marseille, Hồ đã vội làm đơn xin được học ở trường thuộc địa để “phục vụ mẫu quốc Pháp”. Bị từ chối vì là con quan bị cách, Hồ lang thang kiếm sống. Hồ may mắn gặp được các cụ Phan văn Trường, Phan chu Trinh, Nguyễn thế Truyền v.v… giúp đỡ và giác ngộ cái thân nô lệ để tìm cách giành lại độc lập cho Việt Nam. Các cụ đối với Hồ rất chí tình, nhưng Hồ không thể theo đường lối của các cụ được. Vì như thế thì lợi cho dân cho nước nhiều, chứ Hồ chưa thỏa được tham vọng. Nhờ có các cụ dìu dắt nên Hồ mới làm quen với báo chí và chính trị. Cuối cùng, Hồ đã chọn con đường của quốc tế 3 (công cụ chiến lược của Lê-nin), vì quốc tế 3 chủ trương giúp các thuộc địa giành độc lập (thực chất là để ngả vào chủ nghĩa thực dân đỏ của Lê-nin). Chính Hồ đã viết rằng Hồ còn dốt nát về chính trị, về các học thuyết, nhưng lựa theo quốc tế 3 vì chủ trương của quốc tế 3 mở lối cho Hồ thực hiện được ước vọng “làm cha mẹ của dân Việt Nam”.

Cho nên cái gọi là “Hồ đi tìm đường cứu nước”, chính là tìm đường làm quan. Bị thực dân Pháp từ chối, nay được thực dân đỏ đón nhận nên Hồ đã mừng reo lên và tuôn nước mắt (Hồ đã dại dột bộc lộ cái kẽ hở đó).

Được thực dân đỏ huấn luyện làm gián điệp và biên chế trong Cục Phương Đông. Năm 1925, Hồ được cử về Đông-nam-á. Chính ở đây đã có bằng chứng bản chất Việt gian bán nước của Hồ. Đó là Hồ bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp, lấy tiền xài sang. Sau vụ bán cụ Phan Bội Châu, từ Tàu, Hồ qua Thái-lan 1928. ở đây Hồ lại làm một hành động Việt gian nữa. Chẳng là lãnh tụ Nguyễn Thái Học của VNQDĐ, đang chuẩn bị khởi nghĩa đuổi thực dân Pháp, nên cử ba người sang Thái-lan móc nối mua vũ khí và họ đã tìm gặp những người Việt tại Thái-lan. Trong số đó có Hoàng văn Hoan và Nguyễn đức Quỳ. Tới Thái-lan, Hồ được Hoan và Quỳ cho biết người của VNQDĐ tìm mua vũ khí để chuẩn bị khởi nghĩa. Hồ khuyên Hoan và Quỳ đừng nên dính vào việc nguy hiểm này trước khi từ giã Thái-lan, qua Tàu trở lại. Ba người của VNQDĐ từ Thái trở về Việt Nam, qua biên giới thì bị mật thám thực dân Pháp đã đón sẵn, bắt đưa vào tù, tra tấn, hỏi cung. Biết VNQDĐ định khởi nghĩa, thực dân Pháp cảnh giác tước vũ khí binh sĩ người Việt. Đó là nguyên nhân lãnh tụ liệt sỹ vĩ đại của dân tộc, Nguyễn Thái Học, đành hạ lệnh tổng khởi nghĩa dù việc chuẩn bị chưa xong.

Chẳng cần úp mở cũng đoán biết là ai là kẻ báo cho mật thám Pháp bắt ba người của VNQDĐ từ Thái-lan trở về. Việc bán cụ Phan Bội Châu và dẫn chứng nói trên – lấy từ hồi ký của Hoàng văn Hoan và của Nguyễn đức Quỳ – cho phép ta khẳng định: Hồ là kẻ mượn tay thực dân Pháp phá cuộc khởi nghĩa của VNQDĐ. Vì, sự thành công của VNQDĐ sẽ là trở ngại cho việc xâm lược kiểu mới của thực dân đỏ cũng như chỗ ngồi “làm cha mẹ dân” của Hồ.

Chính vì biết dự định khởi nghĩa của VNQDĐ, nên chưa kịp nhận lệnh của quốc tế 3 Hồ đã tập hợp những tên cộng sản Việt Nam, cho ra đời cái gọi là “đảng cộng sản Việt Nam”. Sau đó lệnh của quốc tế 3 đến bắt đổi thành “đảng cộng sản Đông-dương” mà gọi tên với đúng nội dung của nó phải là: “Tổ chức công dân búa liềm, công cụ xâm lược của thực dân Đỏ”. Và, chúng vội vàng đẻ non ra vụ cướp ngày có tên là: “Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930”.

Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 đã lòi đuôi cái gọi là “đảng cộng sản Đông-dương” (hay tập đoàn công dân búa liềm) là công cụ của thực dân đỏ, qua khẩu hiệu đầy màu sắc Việt gian là:
“Trí, phú, địa, hào
Đào tận gốc, trốc tận rễ”!!!

Nếu bốn tầng lớp “trí, phú, địa, hào” của Việt Nam mà bị tiêu diệt thì xã hội Việt Nam còn lại cái gì? Thật là dễ dàng cho thực dân đỏ xâm lược và đồng hóa toàn diện. Chiến lược của thực dân đỏ vừa thâm độc vừa tàn bạo hơn bất cứ tụi xâm lược nào trong lịch sử loài người.

Khẩu hiệu trên chỉ có thể là kim chỉ nam hành động của loại “anh hùng giải phóng dân tộc”, của “ông tiên”, của “hiền triết phương đông” qua lăng kính Lữ Phương và bè lũ đồng dạng mà thôi!

Vài năm sau Hồ làm cái việc bán Lê hồng Phong cho thực dân Pháp như đã viết ở trên (vì thù riêng). Sợ tội với quan thầy, Hồ đành lang thang bên Tàu, không dám trở lại Nga-xô. Bởi vì, Lê hồng Phong mới chính là kẻ mà tụi thực dân đỏ tin tưởng và đào tạo thành tay sai số một sau này, nếu khi Việt Nam bị nhuộm đỏ, chứ không phải là Hồ. Đánh bóng và tạo uy tín cho tay sai Lê hồng Phong, thực dân đỏ đã phong cho hắn chức ủy viên trung ương dự khuyết của quốc tế 3 và chỉ định về làm tổng bí thư của đảng cộng sản Đông-dương.

Thời gian ở Tàu, Hồ đã trực tiếp móc nối được với Phạm văn Đồng; với Võ nguyên Giáp (con nuôi chánh cẩm thực dân Pháp, tên là Marti), kẻ cũng có đơn xin được tiếp tục học để phục vụ mẫu quốc Pháp; với Hoàng văn Hoan mà Hồ gặp khi qua Thái-lan. Về sau, cả ba tên này đều được Hồ ưu đãi cho vào bộ chính trị (hậu thân của khái niệm “chủ tịch đoàn” trước kia) và Đồng làm thủ tướng ngụy quyền Hà-nội; Giáp làm đại tướng tổng tư lệnh ngụy quân; Hoan vừa phụ trách an ninh, tình báo vừa giữ ghế phó chủ tịch quốc hội do Hồ đẻ ra. Hoan còn là phái viên của Hồ bên Trung cộng, nghĩa là theo cách gọi của ngụy quyền Hà-nội: đại sứ đặc mệnh toàn quyền (bán nước)!!!

Thế chiến thứ hai xảy ra, thực dân đỏ tạm ngưng nước cờ xâm lược và cũng quên Hồ luôn. Lang thang bên Tàu như chó lạc chủ, nhưng cái bản chất lưu manh do nghề gián điệp càng thêm phát triển, Hồ làm gián điệp cho Mao, theo rõi quân Tưởng; rồi lại làm tay sai cho tướng Trương phát Khuê của Tưởng để báo cáo tình hình hoạt động của người Việt ở Tàu, phục vụ cho kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”. Bị tố giác là cộng sản – tay sai của thực dân đỏ – nên Hồ bị Trương phát Khuê cho dzô tù.

Nhờ cụ Hồ Học Lãm, một người Việt Nam yêu nước chân chính, cha đẻ của tổ chức “Việt Nam Độc lập Đồng minh”, ra đời từ 1936, có báo cáo xin chính thức hoạt động, gửi cho văn phòng trung ương quốc dân đảng của Tàu, cùng với cụ Nguyễn Hải Thần bảo lãnh, nên sau khi làm kiểm điểm phản tỉnh, Hồ được Trương phát Khuê cho ra khỏi tù. Tổ chức Việt Nam Độc lập Đồng minh do các cụ Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh v.v… tiếp tục hoạt động. Hồ xin gia nhập nhưng vẫn sợ Trương phát Khuê bắt tù lại nên láu cá xin được về hoạt động ở biên giới quốc nội. Với danh nghĩa Việt Nam Độc lập Đồng minh (tập hợp của nhiều nhóm người VIệt ở Tàu làm cách mạng), khi về biên giới, gặp đoàn thanh niên do tổ chức của cụ Nguyễn Hải Thần móc nối cho qua Tàu để huấn luyện, Hồ bịa đặt rằng hắn là đại diện của cụ Nguyễn Hải Thần, thâu nhận nhóm đó mở lớp giảng về tôn chỉ hoạt động của Việt Nam Độc lập Đồng minh (sau gọi tắt là Việt Minh) và cho về nước hoạt động. Nhóm đó gồm: Chu văn Tấn, Lê quảng Ba, Trần đại Lâm v.v… (tham khảo hồi ký của bọn này sẽ rõ).

Đúng vào thời kỳ đó, ở Việt Nam, tổ chức cộng sản bị thực dân bắt gần hết bọn đầu lãnh trung ương, chỉ còn lại vài mống là Trường chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt. Sau đó thêm Phùng chí Kiên, được thực dân đỏ cho về bổ sung vào trung ương để tổ chức lực lượng vũ trang. Chức tổng bí thư bị khuyết. Đào duy Tùng, tên chánh tổng ác ôn được móc nối vào cộng sản và giữ chức bí thư tỉnh ủy cộng sản ở Hưng-yên (Bắc Việt) có sáng kiến đề nghị Trường Chinh giữ chức quyền tổng bí thư. Cái chức này của Trường Chinh chỉ do dăm tên cộng sản ở Hưng-yên bầu ra mà thôi, nghĩa là chưa đúng điều lệ. Trường Chinh sướng rên lên về cái chức bố láo đó, nhưng vẫn nơm nớp sợ rớt đài.

May thay cho cả Hồ và Trường Chinh. Thấy núp dưới danh nghĩa Việt Minh của cụ Hồ Học Lãm có kết quả tốt. Họ Hồ bèn dùng danh nghĩa phái viên Cục Phương Đông mời Trường Chinh lên biên giới Cao-bằng họp. Trường Chinh gọi cả Hoàng quốc Việt đi theo. Hồ biết Trường Chinh là tổng bí thư bố láo. Trường Chinh cũng biết Hồ là tên “thất sủng và thất nghiệp” mượn danh nghĩa cũ là phái viên Cục Phương Đông để lòe nhau. Biết tẩy của nhau nên cả hai cùng lật bài: Trường Chinh thì công nhận Hồ là phái viên Cục Phương Đông cử về. Còn Hồ thì nhân danh phái viên Cục Phương Đông, hợp pháp hóa cái chức tổng bí thư cho Trường Chinh. Khi biết Hồ có ý “định cư” hẳn ở Cao-bằng, Trường Chinh sợ Hồ có uy tín hơn Trường Chinh, sẽ tóm thâu quyền lực của Trường Chinh. Đó là lý do khi Hoàng quốc Việt bị lạc đường nên đến chỗ họp sau Trường Chinh vài ngày. Lần đầu tiên gặp Hồ, Việt chưa biết xưng hô thế nào thì Trường Chinh nhanh mồm bảo Việt gọi Hồ là “bác”. Cùng là cộng sản mà không xưng hô “đồng chí” nên Hồ láu cá hiểu ngay ý đồ của Trường Chinh là muốn Hồ giữ một khoảng cách, là cố vấn thôi, chứ đừng đi sâu vào công việc của Trường Chinh, vì qua báo cáo của Trần Phú, Hà huy Tập gửi quốc tế 3, Trường Chinh biết Hồ là kẻ đầy tham vọng, mưu mô, lạm quyền. Đó là lý do Hồ phải nằm trong hang Pắc-bó, lén lút kết thân với nhóm Chu văn Tấn, Lê quảng Ba v.v… vốn là người dân tộc thiểu số, đã được Hồ dạy khi Hồ xin với các cụ Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh về gây phong trào Việt Minh ở quốc nội, gặp bọn họ ở biên giới. Rồi để cho Trường Chinh yên lòng và cũng là tạo ra bằng cớ cụ thể, chứng tỏ Hồ, dù mạo muội hãm hại Lê hồng Phong, nhưng lòng Hồ lúc nào cũng hướng về mẫu quốc đỏ, về nguyên thủ của thực dân đỏ, về cái “quốc tịch Nga-xô” của Hồ. Cho nên Hồ để râu, nằm ở Pắc-bó dịch cuốn “lịch sử đảng cộng sản Nga, bolchévik”; dịch cuốn “tỉnh ủy bí mật” là của Nga-xô. Và Việt gian nhất là dám lấy tên Lê-nin đặt cho dòng suối chảy ngang cửa hang Pắc-bó, cũng như tạc vào đá, tượng của Các-mác!!!

Việc làm này của Hồ chứng tỏ cái gì?

Việt Nam ta có câu:
“Công Cha như núi Thái sơn
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Thế nghĩa là Hồ coi Mác là cha và Lê-nin là mẹ của Hồ, phải luôn có hiếu với cha mẹ. Và, Hồ đã coi đảng cộng sản Nga là tổ chức của Hồ, Nga-xô là tổ quốc của Hồ cũng như hoạt động của một “tỉnh ủy Nga-xô” cũng đủ là bậc thầy của Hồ. Và, Hồ tự thú: dùng tài liệu dịch đó để huấn luyện cán bộ của đảng (tức tụi cộng sản). Nghĩa là làm sao cho toàn thể đảng viên cộng sản phải có quan niệm như Hồ về Mác, về Lê-nin, về nước Nga-xô.
Chưa cầm quyền, vậy mà Hồ đã dám tự cho phép dán nhãn Nga-xô trên một bộ phận lãnh thổ của Việt Nam! Chẳng hiểu Lữ Phương có dám nhìn vào cái sự thật rành rành đó không, mà dám hạ bút đội tên “mãi quốc cầu vinh” thành “anh hùng giải phóng dân tộc” và “lãnh tụ quốc tế tài ba” v.v…

Cho dù trong bài viết của mình, Lữ Phương có đan xen một số phê bình về đường lối của Hồ, nhưng quả thực những cái nhãn mà Lữ Phương dán cho Hồ đã nâng Hồ lên địa vị mà không một anh hùng nào trong lịch sử Việt Nam sánh bằng.

Các anh Hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung còn thua cái vế “quốc tế tài ba” mà Lữ Phương dâng cho Hồ.

Sau này, khi đã tiếm được quyền thống trị, trong khi Hồ khúm núm nâng Vorosilov (chủ tịch quốc hội Nga-xô, lớn hơn Hồ hai tuổi) là cố, tức là ông nội của ông nội Hồ, thì Hồ xấc xược “bác bác, tôi tôi” với Đức Thánh Trần Hưng Đạo (chỉ riêng tuổi đời đã hơn Hồ gần 6 thế kỷ) và Tố Hữu thì, “anh anh, tôi tôi” với đại thi hào Nguyễn Du, còn với Stalin thì hắn gọi “ông” (theo cách ông nội). Kẽ hở của Hồ và Tố Hữu rành rành chứng minh rằng bọn chúng và cái tập đoàn mafia cộng sản của chúng không phải là người Việt Nam, không tự hào là người Việt Nam, nên chúng mới coi thường, hỗn láo với danh nhân Việt Nam, với ông, cha của nhân dân Việt Nam.

Còn một dẫn chứng nữa chứng minh Lữ Phương mù lòa trí tuệ. Đó là năm 1945, bác sỹ Trần Văn Lai – trong chính phủ của cụ Trần Trọng Kim – là người Việt Nam đầu tiên làm thứ trưởng Hà-nội, đã cho phá bỏ tượng toàn quyền thực dân Pháp ở Đông-dương, tên là Paulbert. Đó là điểm khởi đầu biểu tượng sự sụp đổ của thực dân Pháp ở Việt Nam. Còn tập đoàn mafia cộng sản thì sao? Chúng đã đặt tên cho công viên lớn và đẹp nhất Hà-nội là “công viên Lê-nin” và dựng tượng Lê-nin – biểu tượng sự thành công của thực dân đỏ ở Việt Nam. Nhân dân Việt Nam (trong đó không có Lữ Phương) đã thấy điều đó nên đã đội vào đầu Lê-nin cái nón cối thủng, khoác cho tượng Lê-nin chiếc áo “đại cán” cộng sản hay mặc (mà hiện Đỗ Mười vẫn long trọng mặc kiểu áo đó) và chất vấn tập đoàn mafia cộng sản rằng:

“Lê-nin quê ở nước Nga
Cớ sao lại đứng vườn hoa nước này?”…

Viết đề cương về Hồ mà Lữ Phương không biết đến sự thực thời sự này thì quả là dốt nát, vô trách nhiệm. Hoặc giả Lữ Phương cố tình bỏ qua để chạy tội cho Hồ và cái tập đoàn vong quốc cộng sản của Hồ, nhằm lừa đảo thiên hạ, nhất là bạn trẻ. Cách viết tài liệu xuyên tạc như vậy mà Lữ Phương dám “vừa đánh trống vừa ăn cướp” để kêu gọi nên có “một cái nhìn công bằng là một cái nhìn hiện thưc về nhân vật này (tức Hồ)”! Rõ là thảm hại cho loại trí thức kiểu này, mà Mao trạch Đông từng nói là “không bằng cục phân”!!!

Xin viết tiếp về Hồ.
Lại nói cái ngày đầu tiên Hồ gặp Võ nguyên Giáp ở bên Tàu, hỏi về lý lịch của Giáp, Hồ đã thấy Giáp sẽ là con bài tẩy sau này nên khuyên Giáp theo học trường võ bị Hoàng Phố.

Khi biết Nga-xô cử Phùng chí Kiên bổ sung vào trung ương mafia cộng sản Đông-dương, đặc trách về quân sự. Hồ lo lắng lắm. Hắn vội “lệnh” cho Giáp bỏ học về nước ngay để xin làm dưới quyền Kiên (nhờ cái vốn quân sự mấy tháng ở Hoàng Phố). Vì sao Hồ ngại Kiên? Chính vì Phùng chí Kiên, trước đó giữ chức trưởng ban đối ngoại thay Hà huy Tập (vì Tập lên chức tổng bí thư), nên Kiên – qua Tập – biết về nhân cách, tham vọng tàn bạo của Hồ. Vì chính Tập đã báo cáo với quốc tế 3 rằng:

1- Hồ hay lạm quyền, nhận báo cáo của trung ương cộng sản lúc đó, tự ý găm lại; tự ý giả danh theo lệnh của quốc tế 3 ra chỉ thị cho bọn Tập để lấy le;

2- Hồ đã tự ý liên lạc với Ngô đức Trị, khi đó là một ủy viên trung ương của nhóm Tập, nhằm gây bè phái để Hồ dễ lũng đoạn, nắm sự lãnh đạo của trung ương mafia cộng sản lúc đó. Cần lưu ý rằng, Hồ tuy được Cục Phương Đông sử dụng làm phái viên liên lạc với mafia cộng sản Đông-dương, nhưng chưa bao giờ Nga-xô cho hắn cái chức trung ương ủy viên của mafia cộng sản Đông-dương. Một không may cho Hồ là khi đó Ngô đức Trị bị thực dân Pháp bắt và Trị đã khai hết và chỉ chỗ cho Pháp bắt cả Trần Phú – tổng bí thư đầu tiên của mafia cộng sản Đông-dương – vào đúng lúc báo cáo của Hồ gửi tới quốc tế 3, trong đó Hồ ca ngợi Ngô đức Trị hết lời và gợi ý nên để Trị giữ chức tổng bí thư mới xứng với “tài trí và năng lực lãnh đạo” của Trị.

Hồ rất ghét Trần Phú vì nhiều lần Phú đã báo cáo quốc tế 3 về tội ba hoa, hám quyền lực và nhất là vô nguyên tắc của Hồ. Cụ thể là bọn Phú móc nối thanh niên trong nước (phần lớn ở vùng Nghệ-Tĩnh) đưa sang Tàu để huấn luyện. Đáng ra Hồ chỉ căn cứ vào sự giới thiệu của bọn Trần Phú mà giúp đỡ những thanh niên đó, nhưng chẳng biết Hồ có âm mưu gì khi bắt những thanh niên còn khờ khạo này phải khai đủ cả quan hệ gia đình, bạn bè mà phải nói rõ tên tuổi cùng chỗ ở của những người trong mối quan hệ đó. Để rồi tự dưng phần lớn gia đình, bạn bè của những người đó đang ở quê nhà bị thực dân Pháp bắt, cũng như đa số bọn họ sau khi được huấn luyện cho về hoặt động trong nước đều bị thực dân Pháp tóm gọn cho đi tù. Và, qua báo cáo của Phú gửi quốc tế 3, Phú đã nêu nghi ngờ về Hồ! Nhất là Hồ rất thân với Lâm đức Thụ (tức Nguyễn công Viễn), một chỉ điểm của mật thám Pháp!

Hồ còn ngán Phùng chí Kiên vì Kiên được quốc tế 3 tín nhiệm hơn Hồ, hơn nữa nếu Kiên nắm giữ lực lượng vũ trang thì làm sao Hồ có thể nuôi cái mộng làm lãnh tụ tối cao của mafia đỏ được.

Cho nên khi Giáp về giúp việc cho Kiên thì chẳng rõ từ ai mà Pháp biết được ngày, giờ, địa điểm của Kiên qua lại, để tổ chức phục kích và đã bắn chết Kiên (vì Kiên chống cự và bỏ chạy). Đó là giữa năm 1944. Vì thế, Giáp, là người duy nhất có qua lớp quân sự ở Hoàng Phố, trong cái lực lượng vũ trang mafia đỏ đó, được đôn lên làm trung đội trưởng của trung đội vũ trang duy nhất này, và Chu văn Tấn, xuất thân là đội của lính dõng, giữ chức chính trị viên. Và, ngày 22-12-1944, tại Tân Trào, Hoàng quốc Việt thay mặt Trường Chinh, làm lễ trao cờ và trao nhiệm vụ cho Giáp, Chu văn Tấn và cái trung đội ấy.

Cái chết của Phùng chí Kiên rất mờ ám, nên khi Hồ tiếm được quyền lực cao nhất của của mafia đỏ, bộ máy tuyên truyền xuyên tạc của Hồ đã né tránh việc này. Vốn gốc gác là gián điệp và chỉ điểm cũng như quá trình dùng Pháp thủ tiêu những đối thủ của mình, cho nên có thể kết luận rằng việc Pháp biết đường đi nước bước của Kiên là do Hồ trực tiếp chỉ điểm hoặc qua Giáp để thủ tiêu Kiên, kẻ biết quá nhiều bỉ ổi của Hồ và là vật cản lối của Hồ.

Tất cả những báo cáo nói trên của Trần Phú và Hà huy Tập gửi quốc tế 3 vẫn còn ở kho lưu trữ của trung ương cộng sản Nga-xô (cũ).

Giờ xin tóm lược những hành động chính yếu của Hồ tiếp theo đó cho đến ngày hắn ngỏm, mà theo ngôn ngữ khuyển mã của hắn, viết trong di chúc rằng: “đi thăm các cụ Các-mác và Lê-nin”. Đến chết mà hắn vẫn một lòng một dạ ôm ấp “bố Mác” và “mẹ Lê-nin” của hắn, chứ có nói gì đến tổ tiên Việt Nam đâu!

Núp dưới danh nghĩa Việt Minh và chính phủ Liên hiệp của nhiều đảng phái không cộng sản; lợi dụng sự ngu xuẩn chính trị của chính phủ Pháp lúc đó cứ muốn duy trì chủ nghĩa thực dân, và lợi dụng tinh thần xả thân vì nước của nhân dân Việt Nam, đồng thời che đậy lốt quỷ đỏ của hắn bằng cách “giải tán đảng cộng sản Đông-dương”, Hồ đã tập trung mọi cố gắng để nắm lấy lực lượng vũ trang.

Qua biên bản các cuộc họp chính phủ (1945-46) hiện còn lưu trữ trong cái gọi là “bảo tàng Hồ chí Minh”, thì thấy, thoạt đầu Hồ núp dưới danh nghĩa Chính phủ Liên hiệp đa đảng để mở các lớp quân sự cấp tốc cho thanh niên, học sinh, sinh viên, đặt tên Trần quốc Tuấn, do Võ nguyên Giáp phụ trách. Tiếp theo là ngày 7-1-1946, để có thể chi viện hiệu quả cho cuộc chống thực dân Pháp ở Nam bộ, Hồ đề nghị và được các đảng phái đồng ý hợp nhất lực lượng quân sự, gọi là Quân đội Quốc gia. Cụ Vũ Hồng Khanh (VNQDĐ) làm bộ trưởng quốc phòng. Sau đó Hồ ma giáo đề nghị cụ Vũ Hồng Khanh tham gia phái đoàn ký hiệp định sơ bộ 6/3/1946 ở Đà-lạt (nghĩa là lột chức của cụ Vũ Hồng Khanh một cách khéo léo). Hồ đề nghị luật sư Phan Anh (từng là thành viên chính phủ Trần Trọng Kim) thay cụ Vũ Hồng Khanh làm bộ trưởng quốc phòng, và giáo sư Tạ quang Bửu (nhân sỹ không đảng phái) làm thứ trưởng. Quân đội hợp nhất có các cấp lãnh đạo là:

1) Chính trị vụ trưởng là ông Hoàng đạo Thúy, không đảng phái, nguyên là huynh trưởng hướng đạo sinh;
2) Y tế vụ trưởng là bác sỹ Vũ văn Cẩn, không đảng phái;
3) Chế tạo vụ trưởng là Vũ Anh, người của Việt Minh.

Nhìn vào sự phân công đó, ai mà đoán được mưu ma chước quỷ của Hồ. Thậm chí nhiều đơn vị vũ trang ở địa phương vẫn giữ tên của các tiên liệt VNQDĐ, như đại đội chủ lực ở Hải-phòng, mang tên Ký Con (liệt sỹ VNQDĐ)! Thế rồi, lấy cớ về tầm quan trọng của hội nghị Fontainebleau ở Pháp, Hồ đề nghị luật sư Phan Anh tham gia phái đoàn. Và, Võ nguyên Giáp thay thế luật sư Phan Anh, giữ ghế bộ trưởng quốc phòng của Chính phủ Liên hiệp. Trong quân đội quốc gia, Hồ phong quân hàm thiếu tướng cho Lê thiết Hùng, một người từng là sỹ quan cao cấp của quân đội quốc dân đảng Tàu, nhưng đã được Hồ bí mật kết nạp vào tổ chức mafia đỏ (khi đó Lê thiết Hùng chưa được biết rằng mafia đỏ là cộng sản; lễ kết nạp theo kiểu cắt tiết gà, ăn thề như thảo khấu lục lâm) và theo đề nghị của Võ nguyên Giáp, cho Hoàng văn Thái cái ghế tham mưu trưởng. Nói chung, Hồ đã nắm được quân đội về mặt tổ chức. Còn phía công an (tức nội vụ) cụ Huỳnh Thúc Kháng chỉ là một nhân sỹ yêu nước, giữ ghế bộ trưởng nội vụ, nhưng thực quyền là ở trong tay Hoàng hữu Nam (tên thật là Phan Bôi, em ruột cụ Phan Khôi), thứ trưởng nội vụ, một tên mafia đỏ khát máu nổi tiếng. Sau đó Hoàng hữu Nam bị tai nạn chết, nhưng Hồ vẫn còn những quân cờ đắc lực là Trần Hiệu, Lê Giản, Chu định Xương (là những kẻ đã tạo dựng ra vụ án “Ôn như Hầu” ở Hà-nội để bôi nhọ VNQDĐ, tiến tới loại bỏ nhẹ nhàng VNQDĐ trong Chính phủ Liên hiệp).

Sau khi yên tâm ở lực lượng quân đội đã nằm trong tay Võ nguyên Giáp và lực lượng công an nằm trong tay Trần Hiệu, Lê Giản (còn cụ Huỳnh Thúc Kháng chỉ là bù nhìn), cũng như đẩy được cố vấn Vĩnh Thụy (tức vua Bảo Đại) và cụ Trần Trọng Kim (tháp tùng vua Bảo Đại) qua Trùng Khánh công cán, Hồ bấy giờ mới yên tâm lên đường qua Pháp, mà mục đích chính là để liên lạc với mẫu quốc đỏ, xin chỉ thị chiến lược. Hồ ủy quyền cho cụ Huỳnh Thúc Kháng thay Hồ, mà mục đích chính là mượn cái uy tín “yêu nước và trung thực” của cụ Huỳnh Thúc Kháng để dựa vào tài liệu của tụi Trần Hiệu, Lê Giản, Chu định Xương chế biến ra cái vụ án “Ôn như Hầu”. Thế là, cụ Huỳnh Thúc Kháng đâu ngờ đã bị rơi vào bẫy của họ Hồ để làm cái việc mà lịch sử trung thực sẽ không thể tha thứ cho cụ, vì qua vụ án “Ôn như Hầu” cụ đã giúp Hồ loại bỏ được VNQDĐ trong Chính phủ Liên hiệp (dù là vô thức).

Trước khi Trung cộng chiếm được toàn bộ lục địa Tàu, 1949, thì Hồ tỏ ra “khiêm tốn”, “dân chủ” trong hành động. Nhưng sau năm 1949, nối liên lạc được với Trung cộng để giúp đỡ thành công cái gọi là “chiến dịch biên giới 1950”, Hồ đã đưa luân phiên nhân sự của lực lượng vũ trang của Chính phủ Liên hiệp qua Trung cộng học tập – cả chính trị lẫn quân sự – Cho nên khi số đi Trung cộng học xong, được Trung cộng trang bị lại, thì khi về họ trở thành lực lượng vũ trang của Hồ, số lớn trở thành đảng viên cộng sản hoặc đoàn viên thanh niên cộng sản. Thực ra họ vào đảng cộng sản theo kiểu tập thể, ồ ạt mà như Hồ nói là “mở rộng cửa đảng (cộng sản)”, tưởng rằng như thế là toại nguyện xả thân vì nước, bởi Hồ và tập đoàn mafia đỏ của hắn dụ khị rằng vào đảng để thành lực lượng tiên phong, lực lượng xung kích v.v… đánh đuổi thực dân Pháp. Chính vì cái bong bóng “tiên phong”, “xung kích” để “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà bao thanh niên Việt Nam yêu nước bị lừa, chứ đâu có được nghe nói là “chiến đấu và bảo vệ chủ nghĩa xã hội”! Vì có ai biết chủ nghĩa xã hội là cái chó gì đâu. Hồ và đồng bọn còn khai thác triệt để tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” ấy của thanh niên trong lực lượng vũ trang lúc đó bằng cách bày ra cái trò: mỗi lần đi chiến đấu, những người lính trẻ lúc đó muốn được trao nhiệm vụ cảm tử, phải làm đơn xin vào đảng, được kết nạp tại trận địa rồi mới xông lên “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Đồng thời dùng thủ đoạn lừa đảo nói trên để nắm chặt hơn, độc quyền hơn lực lượng vũ trang thông qua tổ chức đảng cộng sản, Hồ và đồng bọn cho hình thành ở tất cả các đơn vị vũ trang, dù lớn hay nhỏ, cái gọi là “chi bộ đảng cộng sản”, “chi đoàn thanh niên cộng sản”, “đảng ủy cộng sản”. Thế là Hồ đã độc quyền nắm giữ lực lượng vũ trang. Rồi Hồ phong quân hàm, tạo ra cái gọi là “hông” hơn “chuyên”, nghĩa là tổ chức cộng sản thông qua “chính trị viên” hoặc “chính ủy”, với việc quân sự chuyên môn, thông qua cấp chỉ huy đơn vị. Tất nhiên ở mỗi đơn vị, quyền sinh sát nằm trong tay các chính trị viên hay chính ủy. Chỉ huy trưởng phải chấp hành lệnh chính trị viên, ngay cả kế hoạch hành quân chiến đấu cũng phải được chính trị viên chuẩn y. Chính trị viên và chính ủy còn là kẻ quyết định, việc đề nghị cấp trên thăng cấp hay cho đi học những binh lính trong đơn vị.

Để quản lý chặt chẽ cái tổ chức đảng cộng sản ở các đơn vị vũ trang, Hồ cho ra đời cái gọi là “tổng cục chính trị”. Tất nhiên cái tổng cục chính trị này nắm cả công tác đảng lẫn quản lý nhân sự, đề bạt cán bộ. Và, cũng tất nhiên là ngoài Hồ và chân tay của Hồ trong tổ chức mafia đỏ ra, chẳng ai có quyền được biết mọi hoạt động và tổ chức của lực lượng vũ trang, cái mà Hồ gọi là “xương sống của cơ quan chuyên chính”. Rồi Hồ thông qua cái tổng cục chính trị đó mà đẻ ra các trò ma giáo khác như cụm từ “bộ đội cụ Hồ”, “lính cụ Hồ” cũng như khẩu hiệu hành động cho lực lượng vũ trang là: “trung với đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Cái khẩu hiệu lòng thòng ấy chủ yếu là ở cụm từ “trung với đảng”, nghĩa là Hồ là ông chủ thực sự của lực lượng vũ trang. Và cũng từ đó, cái khởi thủy của lực lượng vũ trang được hình thành dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Liên hiệp nhằm bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân Việt Nam, thì nay nó thoái hóa thành “ngụy quân” có nhiệm vụ bảo vệ “đảng” – tức Hồ và cái tổ chức mafia đỏ của hắn. Và cao hơn, hay nói một cách khác là mục tiêu tối hậu của ngụy quân là “bảo vệ Liên-xô” như Hồ ra lệnh bằng miệng cũng như bằng các nghị quyết của trung ương mafia đỏ của Hồ. Vậy, Việt Nam cách Nga vài ngàn dặm, tại sao lại bảo vệ cho Nga-xô, và bảo vệ như thế nào? Xin thưa rằng, trước mắt là phải đánh thắng thực dân Pháp để Việt Nam trên thực tế là thuộc địa của thực dân đỏ, được cai trị thông qua Hồ, tên toàn quyền kiểu mới của thực dân đỏ, dựa vào tổ chức mafia đỏ mà thực chất đó là những tên mang quốc tịch Nga, nghĩa là Nga gốc Việt. Tiếp đến là làm “lính xung kích” trong chiến lược bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ và ngấm ngầm bao vây Trung cộng, một nguy cơ tranh quyền lãnh đạo thực dân đỏ của Nga-xô.

Kể từ đó, cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp không phải để đạt mục tiêu trước đây do Chính phủ Liên hiệp đề ra là giải phóng đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Mà nội dung mục tiêu của cuộc chiến đó chỉ là mượn danh “giải phóng đất nước”, “bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam” để thực hiện chiến lược toàn cầu của Nga-xô, tức thực dân đỏ hay đế quốc đỏ cũng vậy.

ở nông thôn cũng thế, Hồ cho “mở cửa đảng” kết nạp đảng viên từ nông dân. Những người này cũng chẳng hề biết gì về cái gọi là “chủ nghĩa cộng sản”. Vì ngay trong lực lượng vũ trang, tự bản thân đã là một tổ chức phải có kỷ luật chặt chẽ, hai là nơi tập trung chủ lực nhân sự của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh, thế mà cũng chưa được học và cũng chưa đủ người hiểu về chủ nghĩa cộng sản để làm công tác giảng dạy. Bản thân cái lũ gọi là “chính trị viên”, “chính ủy” còn mù tịt. Thục chất chúng chỉ là bọn ít học hoặc chưa bao giờ được học, dễ dàng nuốt những khẩu hiệu mị dân, những kích động thú tính v.v… của họ Hồ, khiến bọn họ trở thành u mê hoàn toàn và cuồng tín triệt để. Đó thực thụ là những con chó giữ nhà, trung thành với Hồ, cũng có nghĩa là trung thành với mẫu quốc đỏ của chúng, vì chúng đã nhập quốc tịch Nga-xô.

Câu chuyện về lễ tuyên thệ nhập đảng mafia đỏ khi ấy thật là tức cười. Nhiều đảng viên nông dân kiểu ấy đã thề, trước bàn thờ có lá cờ đỏ, búa liềm vàng (tức quốc kỳ Nga-xô), được gọi là “đảng kỳ” của mafia đỏ; có ảnh Mác. Ăng-ghen, Lê-nin và Stalin rằng: “Thưa hai ông tây rậm râu (tức Mác và Ăng-ghen); một ông sâu mắt (tức Lê-nin); một ông râu chổi mép (tức Stalin), tôi xin thề”. Việc tưởng như đùa mà là thực trăm phần trăm, có cả ngàn người biết, kể cả Hồ, Trường Chinh, Võ nguyên Giáp, Nguyễn chí Thanh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt. Chỉ có điều là khi nghe báo cáo về những chuyện như thế, bọn chúng còn cảm động rằng đảng viên mafia đỏ kiểu ấy là chân thành từ tim ruột.

Sự Tích Con Yêu Râu Xanh - Bài 3





Những chuyện như trên không phải chỉ ở cái thuở 1950-51 gì đó, mà tận sau 1960, một tỉnh ủy viên mafia đỏ ở Thanh-hóa còn tự hào phát biểu trong một hội nghị nông dân tỉnh (tức nông hội) rằng: “Tỉnh ta rất tự hào vì là nơi chôn nhau cắt “nhốn” của lãnh tụ Lê-nin vĩ đại. Người là dòng dõi của Lê Lợi, anh hùng giải phóng dân tộc.” Hay ở Nghệ-an, quê nội, quê ngoại của Hồ, cũng một phó ban tuyên huấn tỉnh ủy đã hùng hổ giảng về “chủ nghĩa quốc tế vô sản cao cả”, có đoạn nói: “Khổng tử là người “du-ma-ni” (tức Rumanie) vì Việt Nam dịch Rou-manie là nước Lỗ-ma-ni, đã đẻ ra thuyết “trung quân” làm chỗ dựa triết học cho phong kiến phản động”.

Ở những cấp cao hơn cũng thế, chẳng biết họ ngu thật hay giả vờ ngu để được lòng Hồ, vì thấy Hồ ca ngợi loại đảng viên “hai ông rậm râu, một ông sâu mắt, một ông râu chổi ở mép”, cho nên cũng phát biểu văng mạng. Thí dụ cụ thể như, cả ngàn người dự lớp nghiên cứu chính trị khóa 1 của trường đại học nhân dân ở Hà-nội năm 1955, chắc không thể nào quên “đồng chí” Nguyễn văn Trấn (tác giả cuốn “Gửi Mẹ và Quốc hội”), khi giải đáp thắc mắc của học viên đã bạo mồm nói:

“Những đôi giày của tư bản mà các anh cho rằng đẹp hơn hàng của phe xã hội chủ nghĩa là sai. Vì giày của tư bản dùng để đá đít cha ông các anh, để dẫm lên mồ mả tổ tiên các anh!!! Còn giày của phe ta (tức Đông-âu khi đó) mà các anh chê xấu vì giày đó phục vụ giai cấp công nhân nhằm sản xuất ra nhiều của cải cho xã hội!!!”

Xin lưu ý rằng cái ông Nguyễn văn Trấn này đã từng giữ chức phó bí thư xứ ủy Nam-kỳ của mafia đỏ. Sau cái câu phát biểu kiểu “điếc không sợ súng” ấy, ông ta về ban tuyên huấn trung ương của mafia đỏ, chiếm đóng tại trường Albert Sarraut cũ, giữ chức vụ trưởng vụ giáo dục.

Nhiều vị quân, dân, chính ở miền Nam, sau ngày mafia đỏ đặt ách thực dân đỏ, bị đưa đi cải tạo có thể làm nhân chứng rằng nhiều tên ngụy quân mafia đỏ, vai đeo quân hàm trung tá trở lên mà còn phát biểu theo kiểu “hai ông rậm râu” rằng:

“Máy bay của ta (tức ngụy quân cộng sản) đứng núp trốn trong các đám mây chờ máy bay giặc Mỹ ném bom trở về, bất thần xông ra bắn rơi chúng.”

Kiểu phát biểu này hầu như xảy ra ở khắp cả trăm trại cải tạo, cho ta nghĩ rằng: bọn chúng đã được cho học tập trước khi làm cai tù. Và kẻ giảng cho chúng cái câu nói nổi tiếng ngu ấy chắc chắn phải ở cấp chí ít là đại tá trở lên.

Có thể Lữ Phương cho rằng Dương thu Hương đã không công bằng khi trong tác phẩm của mình, Dương thu Hương kể về một nhân vật giữ chức “trưởng ban tuyên huấn tỉnh ủy” tức là hắn lãnh đạo cả ba ngành: văn hóa, y tế và giáo dục của toàn tỉnh, khi được cấp dưới xin cho ngâm thơ của cụ Đồ Chiểu, hắn đã hỏi: “Đồ Chiểu là thằng nào?” Khi được cấp dưới giải thích, hắn đã nói, đại ý là chỉ ngâm thơ “anh Lành” (tức Tố Hữu) thôi, cho chắc ăn!

Dương thu Hương đã viết thực ra còn chưa đúng hết. Bởi vì ngay tên bồi bút hạng nặng ký của ngụy quyền cộng sản Hà-nội là Cù huy Cận, giữ chức thứ trưởng văn hóa, nghe đài phát thanh của chính bọn chúng phát bài “Goan-ta-na-mê-ra” – bài hát đó là của Cu-ba cộng sản – Cù huy Cận gọi Ngô sĩ Hiển hỏi giật giọng:

“Ai cho phép hát bài nhạc giật gân dâm dật ấy. Bài đó xuất xứ từ đâu?”
Khi nghe Ngô sĩ Hiển báo cáo bài đó là của Cu-ba, chào mừng chiến thắng của “cách mạng” ở Goan-ta-na-mô; Cù huy Cận lịm người, giả bộ lắng nghe rồi cười cười mừng rỡ: “Ừ, ừ, nghe kỹ thì quả là hào hùng thật!(?)” Nghe chuyện này mà cứ tưởng như truyện tiếu lâm của nhân dân ta: “… bẩm quan lớn đã… đã thối rồi ạ.”
Ngay cả Trường Chinh cũng vậy. Hắn hùng hổ bằng cái giọng “ra vẻ ta đây là tướng cướp” lên án điệu múa “hu-la-húp” là đồi trụy, là đủ thứ tởm lợm nhất. Nào hay, một đêm sau khi xem đoàn tạp kỷ của Đông Đức, với điệu múa “hu-la-húp” ấy, nhưng thuyết minh viên gọi đó là “điệu múa lắc vòng”, Trường Chinh vỗ tay tán thưởng và khen hết lời, nào là ”nghệ thuật”, nào là đủ thứ tốt đẹp.

Bọn mafia cộng sản hầu như trọn vẹn là lũ mặt dầy, nói láo không biết ngượng, nói càn, cắn càn. Và, càn bậy nhất là chúng tự đội chúng lên là “đỉnh cao trí tuệ”! Nghe kinh bỏ mẹ!

Xin nói tiếp về hoạt động của “ông tiên” của Lữ Phương.
Sau khi đã nắm trọn vẹn quyền lãnh đạo về lực lượng vũ trang và tổ chức được đội ngũ ngụy quyền cộng sản ở hạ tầng cơ sở, cuối năm 1951, Hồ cho công khai hóa cái tập đoàn “Nga gốc Việt” của hắn, dưới cái tên hiền lành là “đảng Lao động Việt Nam”.
Nếu cái đầu của Lữ Phương cũng như các trí thức, học giả, nhà nghiên cứu (kiểu muốn biết sản phụ khi đẻ đau ra sao, không hỏi sản phụ – là người trực tiếp chịu sự đau đớn khi đẻ – mà đi hỏi người gác cửa bệnh viện) về ngụy quyền cộng sản Hồ chí Minh, có chút óc bằng ngón chân cái thôi, thì sẽ thấy cái gọi là “đảng Lao động” của Hồ chẳng lao động sản xuất cái mẹ gì cả. Nó là công cụ của thực dân đỏ, thông qua Hồ và tay chân, chỉ ra công phá hoại đất nước và xã hội Việt Nam, một cách có kế hoạch, có mục tiêu trước mắt, có mục tiêu lâu dài. Thế thôi!

Cũng may trời có mắt, nên chủ nghĩa thực dân đỏ chết không kịp ngáp. Nếu không, xã hội Việt Nam và đất nước Việt Nam bị Hồ và tập đoàn mafia đỏ phá tanh bành như thế thì chỉ có lợi cho thực dân đỏ mà thôi. Tình hình ở phía Bắc chắc Lữ Phương không biết, nhưng ở miền Nam sau tháng 4/1975, sau cái mà đàn em của Hồ long trọng tuyên bố là “giải phóng dân tộc” và “thống nhất đất nước” (là điều Lữ Phương nhắm mắt, bịt tai mà tin) thì bao triệu người dân ở miền Nam bị vào tù; bao triệu người bị cướp nhà cửa và đuổi đi miền núi cho chết đói và bệnh tật; bao triệu người phải vượt biển đi tìm sự sống, và vài trăm ngàn người đã chết chìm ở Biển Đông; các thành phố ở miền Nam bị tàn phá như thế nào vì lũ ngụy quân cộng sản vừa ngu, vừa tàn bạo ấy! Sân bay Tân Sơn Nhất thì phá các đường băng để trồng sả. Đất đai quanh Tân Sơn Nhất, mà chính quyền miền Nam xưa dự trù mở rộng sân bay khi nạn cộng sản xâm lăng không còn, được chia lô dành cho ngụy quân cộng sản. Các ao ốc, các biệt thự được chia cho mafia đỏ. Ngụy quân mafia đỏ đóng ở đâu thì chúng tháo cửa sổ làm củi đun, như tòa cao ốc của ông Đức Âm, chủ Đại Nam ngân hàng ở trước dinh độc lập là một thí dụ.

Lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử các nước trên thế giới, đã từng có bao cuộc gọi là “giải phóng dân tộc”. Có đội quân giải phóng nào tàn phá làng mạc, giết hại nhân dân không? Nhà Trần vào Thăng Long sau khi đuổi giặc Nguyên; nhà Lê đuổi quân Minh; Quang Trung đuổi quân Thanh có đội quân nào giết dân, tàn phá kinh thành không? Hay là giúp dân ổn định nơi ăn, chốn ở, nhà vua tuyên bố miễn thuế cho dân chí ít cũng 3 năm, có khi tới 10 năm, và ngay tức khắc chứ đâu có “hứa lèo” như Hồ và đồng bọn ngụy quyền cộng sản của hắn từ đó đến nay là Mạnh, Lương, Khải, An cùng anh “cố vấn” hoạn lợn Đỗ Mười và anh “đại tướng cựu chủ tịch” cai ác ôn đồn điền cao-su của Pháp là Lê đức Anh!!!

Hành động ngụy quân cộng sản hệt như của Tô Định, Mã Chính, Tôn sĩ Nghị nhưng còn khủng khiếp hơn cả bọn xâm lược phương Bắc nói trên.

Thật khó hiểu khi cái loại tự khoe có học, có chức vụ v.v… như Lữ Phương, đâu có mù mà không nhận định được những cảnh cụ thể, sờ mó được của nhà cửa tan hoang, máu xương đầy đồng, nhà tù, trại lao động khổ sai mọc như nấm, bao con em dân lành phải làm điếm; trẻ em ăn xin, chui gầm bàn gặm xương ở các nhà hàng hoặc bới rác; các thương phế binh của quân lực miền Nam đói nghèo. Đó là những người đã cống hiến, chân, tay, máu thịt, hạnh phúc gia đình bản thân để bảo vệ miền Nam chống sự xâm lược của thực dân đỏ, thông qua ngụy quân cộng sản Hồ chí Minh; đã kìm chân chúng nên những loại như Lữ Phương, Hoàng phủ Ngọc Tường, Trịnh công Sơn và một số đang cầm bút ở hải ngoại, được ăn học để thành “trí thức”, bằng này bằng nọ như: Đoàn viết Hoạt, hay yên tâm tu luyện (chứ không phải tu rượu) như Thích nhất Hạnh v.v… Ấy, thế mà rồi kẻ thì vào bưng tự nguyện làm con rối, kẻ ngấm ngầm lập “lực lượng thứ ba”, kẻ thì soạn nhạc phản chiến, kẻ nằm vùng chỉ điểm cho giặc cộng tàn sát đồng bào ở Huế v.v… và ra đến hải ngoại còn từ chối đứng dưới lá Quốc Kỳ (Vàng Ba Sọc Đỏ) của Việt Nam. Thậm chí có kẻ còn viết sách “nước đục” để cường điệu và tấn công vào cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Cái “nước đục” đó đã lộ rõ bộ óc bã đậu và dòng máu đục của tác giả. Đó là tên hề từ gấu váy con mẹ cơ hội buôn văn hóa phẩm, đưa thân hình con gấu lợn và cái mặt thớt ra ánh đèn để cho gái trẻ làm trò cười. Hắn đã quên vợ con hắn vì ai mà làm mồi cho cá để góp tay với mafia đỏ, đưa “văn hóa mafia đỏ” từ từ thâm nhập vào cộng đồng người Việt ở hải ngoại, nhất là giới trẻ!

Sau khi cái hội đoàn “người Việt quốc tịch Nga-xô” đó ra đời (dưới tên đảng Lao động Việt Nam), Hồ đã dùng nó làm công cụ lật đổ Chính phủ Liên hiệp đa đảng. Hồ không lộ liễu làm đảo chính như những cuộc đảo chính thông thường là dùng quân đội bắt giữ thành viên chính phủ khác chính kiến với Hồ. Vì như thế thì quốc tế và nhân dân Việt Nam đều biết và sẽ có phản ứng, hậu quả sẽ là hại nhiều, lợi ít.

Với tư cách chủ tịch đảng, Hồ đọc cái gọi là “báo cáo chính trị” trong đại hội 2 tổ chức mafia đỏ, trong đó có phần quan trọng nói về “chính sách giảm tô và cải cách ruộng đất”. Sau đó, Hồ – với tư cách chủ tịch Chính phủ Liên hiệp – trình với quốc hội khóa 1 (đa đảng) để biến thành “luật cải cách ruộng đất”. Hoàn cảnh chiến tranh, nên Quốc hội 1, chủ yếu là ban thường vụ đã thông qua ngay. “Cải cách ruộng đất” không phải điều mới mẻ trong lịch sử chính trị của loài người. Vì mục đích của cải cách ruộng đất trước đó (cũng như sau này ở miền Nam Việt Nam, trước khi bị ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân đỏ) hoàn toàn nhằm kích thích sản xuất nông nghiệp, xóa dần sự nghèo khổ của nông dân để họ có thể đi theo hướng hiện đại trong sản xuất v.v… Cho nên Hồ đã tiên đoán là Quốc hội khóa 1 triệt để ủng hộ chính sách cải cách ruộng đất. Thuở ấy, ngoài Hồ và tay chân kế cận, ít ai thấy được âm mưu của Hồ là:

“Làm tiền đề cho việc hội đoàn “người Việt quốc tịch Nga-xô” (tức đảng mafia cộng sản) là nơi sản xuất đường lối, chính sách; còn Quốc hội chỉ làm cái việc “luật hóa” những đường lối, chính sách đó. Tức là nhen nhóm khái niệm “đảng lãnh đạo”. Đảng đây tức là cái hội đoàn người Việt quốc tịch Nga-xô đó, công cụ của thực dân đỏ thực thi đường lối mà các cụ nhà ta nói là “dùng khỉ vặt lông khỉ”, hay nói rõ hơn là dùng lũ Việt gian để cai trị người Việt và ông chủ thực sự ở Việt Nam là thực dân đỏ “trong danh xưng mới đại sứ đặc mệnh toàn quyền”.

“Để cho cơ quan dân cử tối cao này tự ký án tử hình cho mình và các thành viên chính quyền các cấp, không phải là thành viên “hội đoàn Việt gian”.

“Và, thế là song song với cái gọi là rèn cán, chỉnh quân trong các lực lượng vũ trang mà nội dung là “mafia hóa”, hay nói huỵch toẹt ra là “Việt gian hóa” lực lượng vũ trang, để bộ phận này trở thành lực lượng mà Hồ và bè lũ gọi là “chuyên chính”, huỵch toẹt ra là “lực lượng trấn áp”, “tuyệt đối” trung thành với Hồ và là công cụ thực thi chiến lược bành trướng của thực dân đỏ (hay đế quốc đỏ cũng vậy). Hồ cho thực thi “luật cải cách ruộng đất”. Có điều là, cơ quan chỉ đạo tối cao cũng như nhân sự có quyền ở các tổ đội về tận từng xóm, làng đều phải là thành viên mafia đỏ, chứ không phải là nhân viên của Chính phủ Liên hiệp.

Tại sao Hồ làm như vậy?
Đó là Hồ nhằm mục đích chung (tức quyền lợi của hội đoàn Việt gian hay mafia cộng sản) và mục đích riêng (củng cố quyền lực cá nhân, tạo ra lớp nhân sự mới ít chịu ảnh hưởng của bọn Trường Chinh). Xin được nói rõ hơn về hai mục đích nói trên của Hồ.

1- Mục đích chung:
- Tiêu diệt các cá nhân, các tổ chức của các đảng phái không cộng sản; các hội đoàn tôn giáo;
- Bước thứ nhất của việc bần cùng hóa toàn dân, nghĩa là biến nhân dân Việt Nam thành “vô sản” hết, để trở thành nô lệ kiểu mới của chủ nghĩa thực dân đỏ. Vì khi toàn dân không còn tài sản, mỗi miếng ăn hàng ngày đều trông vào bàn tay bố thí của Hồ và cái tập đoàn mafia đỏ của hắn, thì hắn bảo làm gì mà chẳng phải làm. Chứng minh cụ thể của việc này là sau cái gọi “giảm tô, cải cách ruộng đất”, thì bắt đầu một lô cụm từ mới ra đời như: “cơm cụ Hồ”, “đất cụ Hồ”, “dân cụ Hồ”, “bộ đội cụ Hồ”, và bất cứ nói gì, ăn gì, làm gì cũng phải mở đầu bằng: “ơn đảng ơn bác”, kể cả bị bỏ tù, bị tước đoạt tài sản cho đến cả bị giết chết;

- Đưa Hồ cùng với các đầu đà, hộ pháp của chủ nghĩa thực dân đỏ thành một thứ “tôn giáo đa thần” kiểu “liên hiệp để thôn tính”. Nghĩa là ảnh Hồ được treo để thờ ở khắp các cơ sở tôn giáo truyền thống như đền, chùa, nhà thờ, miếu, cổng làng, cổng chợ, các công sở và Hồ còn chồm chỗm trên bàn thờ Tổ tiên của từng gia đình, chỗ tôn nghiêm nhất!!!
Thần thánh hóa Hồ cùng với tụi đầu lãnh chóp bu của chủ nghĩa thực dân đỏ và sau này còn độc quyền tư tưởng cũng như quản lý trọn vẹn hoạt động văn hóa, văn nghệ, truyền thông, đẻ ra nếp sinh hoạt xã hội kiểu mới với những tục lệ mới như bất cứ hoạt động của đám đông nào từ họp ở lớp học, lao động, vui chơi hội hè v.v… đều có cái trò hát “đảng ca” (bài “ca ngợi đảng Lao động Việt Nam), “lãnh tụ ca” (ca ngợi Hồ), hô các khẩu hiệu như “Hồ chủ tịch muôn năm”, “đảng Lao động Việt Nam muôn năm” cùng với các khẩu hiệu phù hợp với nội dung cuộc họp của đám đông, nhưng nhất thiết phải kết thúc bằng khẩu hiệu trọng tâm là “Liên-xô thành trì cách mạng thế giới muôn năm” (tức là cách mạng của thực dân đỏ hay đế quốc đỏ cũng vậy).

2- Mục đích riêng:
Làm sao Hồ có thể quên được việc Trường Chinh ngày đầu gặp Hồ ở biên giới Việt-Hoa, lúc Hồ ra khỏi nhà tù của Trương phát Khuê, đã bảo Hoàng quốc Việt gọi Hồ là “bác”. Nghĩa là nhắc nhủ Hồ nên giữ một khoảng cách, đừng có lấn chiếm quyền lực của Trường Chinh. Vì thế Hồ mới vào ở Pắc-bó dịch sách cho qua ngày, bị đói rét, bệnh tật. Tất cả sự căm phẫn ấy Hồ đã trút vào bụng cô gái Tày ngây thơ, người đưa cơm cho Hồ. Cái thú trả thù đó của Hồ đã cho ra đời một thằng nhóc và hơn nửa thế kỷ sau, chẳng biết “chống Mỹ cứu nước” là gì, ngoài cái nghề trồng rừng, để rồi trở thành nhân vật số một của “hội đoàn Việt gian”. Một số nhà bình luận của Việt Nam ở hải ngoại cũng có cái nhìn “vội vàng” về nhân vật này (vì nghiên cứu cộng sản theo kiểu chuyện sản phụ thí dụ ở trên) giống mấy anh làm báo phương Tây để “hồ hởi” mừng rằng hắn: “có học và ôn hòa”. Mở mỏ bình luận, môi trên còn chưa kịp đóng xuống môi dưới; bài viết mực còn chưa khô thì… cái nhân vật “có học và ôn hòa” đó, tức Nông đức Mạnh đã chứng minh cái “có học và ôn hòa” bằng: cho Cha Nguyễn văn Lý vào tù, kể cả thân nhân; đàn áp giáo dân An-truyền và Nguyệt-biểu theo kiểu cho một ả ni-cô trong cái tổ chức mà xin phép được đặt tên lại là “Sư, Sãi Mộc Tồn” (thay cho sư, sãi quốc doanh; vì không nên dùng chữ Quốc, có ý nghĩa thiêng liêng) tố rằng có tự do tôn giáo (quên mất chữ “mác” cho đúng là tự do giáo mác); quản thúc các hòa thượng Thích quảng Độ; tống cổ dân biểu Quốc hội Âu-châu đến thăm hòa thượng; tiếp tục quản thúc cụ Lê quang Liêm và khủng bố thân nhân của cụ; đàn áp đồng bào Tây-nguyên và tín đồ Tin Lành; bắt giam các anh Nguyễn vũ Bình, Lê chí Quang v.v… Nên nhớ, ngày đầu nhậm chức, Mạnh vội đến cảng Nhà Rồng (Sài-gòn) dâng hương cho Hồ, rồi đi Nghệ-an thăm nhà của Hồ và dâng hương nữa, rồi đi Pắc-bó tìm kỷ niệm của Hồ cũng lại dâng hương. Đúng là cha nào, con nấy: tên ba que đẻ ra thằng con xỏ lá. Từ Pắc-bó, Mạnh cảm động nghẹn ngào, tuyên bố tìm thấy quyển Karl Marx, tập 3. Ối trời, Đất, Thánh, Thần ôi!!! Một quyển sách dù bìa bằng sắt và các tờ ở trong bằng đồng thì cũng mủn mẹ nó hết rồi chứ còn gì nữa. Nằm trong hang đá ẩm ướt, không bảo quản đúng 60 năm mà vẫn nguyên vẹn. Đúng là Kinh Tày đình!

Hồ được cái láu vặt, do làm nghề gián điệp phải sống lẫn lộn bất hợp pháp nên hắn do đó thêm nhạy bén phản ứng để sinh tồn. Đúng như sau này hắn hay nói là: “phải giành chủ động trong bị động”, Hồ đã áp dụng chữ “bác” của Trường Chinh thành sự độc quyền của Hồ, thành vị trí cao hơn đồng bọn một cái đầu. Nhiều anh múa bút – cả ta, cả tây – đều hư cấu rằng “nhân dân tôn sùng” Hồ nên đã gọi hắn là “bác”. Khổ quá! Thế là anh này anh nọ bịa ra, và mấy người sau tin vào sách mà trích dẫn – nhất là của Tây – đã làm giới trẻ bị nuốt phải của giả mà không biết.

Hồ cũng không quên việc khi họp để bầu ra cái gọi là “ủy ban cách mạng lâm thời”, Trường Chinh và đàn em là Trần huy Liệu đã dám cùng ra tranh cái chức đó. Cũng nhờ Hồ kịp thời khuếch trương cái vụ giúp phi công Mỹ bị Nhật hạ rơi máy bay, đưa trả về cho tư lệnh Mỹ ở Hoa Nam, được Mỹ giúp cho vũ khí, điện đài và người huấn luyện, nên Hồ mới tạm thắng ở “trung ương”, còn ở hạ tầng thì ảnh hưởng của nhóm Trường Chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt vẫn ở thượng phong.

Thêm nữa, phải nói rằng trong tổ chức mafia đỏ trước đó, cũng như trong thời kỳ gọi là “mở cửa đảng” của Hồ, nhiều người gia nhập chính vì cái bánh vẽ “độc lập, tự do, thống nhất, bình đẳng không có cảnh người bóc lột người”. Phần lớn những người đó đã hy sinh, tiếc rằng chẳng giúp gì được nhân dân và Tổ quốc, mà thành những viên gạch lót đường cho Hồ cũng như bọn Trường Chinh xây nên xa-lộ thực dân đỏ trên bản đồ của chủ nghĩa bành trướng. Số còn lại đã có uy tín với dân và gắn bó với quyền lợi của dân. Từ chỗ họ là công cụ của Hồ, nay trở thành chướng ngại một khi hình ảnh chủ nghĩa thực dân đỏ bị lòi đuôi. Đây có thể nói là những người có lý tưởng nhưng tiếc rằng chọn lầm tổ chức. Hệt như cảnh các cô con gái nhà lành muốn đi lao động chân chính đã bị cái bộ lao động của ngụy quyền Hà-nội, do Nguyễn thị Hằng – cô bồ nhí của tên lang băm Xuân Thủy – làm bộ trưởng lừa đảo bán đi làm nô lệ. Người Việt ở Hoa-kỳ phải góp tay giải cứu và giúp đỡ mới ngay năm 2000 này thôi.

Vì thế, mượn danh nghĩa “cải cách ruộng đất”, Hồ bí mật chỉ đạo cho làm cỏ sạch những phần tử nói trên.

Bởi vậy nhiều người chứng kiến cuộc cải cách ruộng đất của Hồ, thấy biết bao trường hợp, nếu không nói là gần như mọi trường hợp xảy ra đều sai so với nội dung và tinh thần của “Luật cải cách ruộng đất”.

Tôi xin vẽ lại bức tranh của việc thực thi “luật cải cách ruộng đất” do Hồ chỉ đạo. Nhưng, trước đó, xin điểm lại nhân sự chóp bu của mafia đỏ, sau cái gọi là đại hội 2 của chúng:

1- Hồ chí Minh: chủ tịch đảng, ủy viên chính trị bộ
2- Trường Chinh: tổng bí thư, ủy viên chính trị bộ
3- Lê Duẩn: ủy viên chính trị bộ kiêm bí thư xứ ủy Nam bộ
4- Phạm văn Đồng: ủy viên chính trị bộ, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao (Hồ là chủ tịch nước kiêm thủ tướng)
5- Võ nguyên Giáp: ủy viên chính trị bộ, bộ trưởng quốc phòng kiêm đại tướng tổng tư lệnh
6- Nguyễn chí Thanh: ủy viên chính trị bộ, phó bí thư quân ủy kiêm chủ nhiệm tổng cục chính trị, đại tướng ngụy quân cộng sản
7 Lê văn Lương: dự khuyết chính trị bộ kiêm ủy viên thường trực ban bí thư, phụ trách trưởng ban tổ chức trung ương
8- Hoàng quốc Việt: dự khuyết chính trị bộ, trưởng ban dân vận trung ương.

Đấy là 8 tên đầu xỏ của mafia cộng sản, hay còn gọi là tập đoàn công dân búa liềm” v.v…

Ngoài 8 tên nói trên, còn 29 tên nữa được trong ban chấp hành trung ương. Bọn chúng chia nhau giữ các chức vụ do Hồ chỉ định với sự tán đồng của Trường Chinh, thí dụ như: Nguyễn Lam: bí thư thứ nhất đoàn thanh niên cứu quốc (thanh niên miền Bắc từ trước 1975 vẫn gọi là “đoàn thanh niên quả thụi”); Nguyễn lương Bằng: đại sứ tại Nga-xô; Hoàng văn Hoan: đại sứ tại Trung cộng; Nguyễn Khang: bộ trưởng phủ thủ tướng; Ung văn Khiêm: thứ trưởng bộ ngoại giao; Lê đức Thọ: phó ban tổ chức trung ương (tức phó của Lê văn Lương); Nguyễn thị Thập: chủ tịch phụ nữ; thiếu tướng Trần đăng Ninh: chủ nhiệm tổng cục hậu cần – Ninh là người dụ dỗ đưa cô Nông thị Xuân dâng cho Hồ làm hậu cung; Trần quốc Hoàn: bí thư Hà-nội; Lê thanh Nghị: chánh văn phòng trung ương; Nguyễn duy Trinh: bí thư khu 5. Phụ tá cho Lê Duẩn ở phía Nam có Nguyển văn Linh, Nguyễn văn Xô, Võ chí Công.

Tố Hữu khi đó mới chỉ là dự khuyết trung ương, phụ tá cho Trường Chinh về công tác văn nghệ.

Một ủy viên trung ương là Hồ viết Thắng được Hồ chỉ định là người chỉ đạo thường trực cái gọi là “cải cách ruộng đất”, và phó cho hắn là Nguyễn đức Tâm, dự khuyết trung ương.

Về tổ chức, ban chỉ huy cải cách ruộng đất ở tỉnh gọi là “đoàn ủy”, ở huyện gọi là “đội”, xuống đến làng xã là “tổ”.

Phương pháp của chúng, thí dụ ở một xã là: cán bộ “đội cải cách” về xã đi khắp xóm, xem nhà ai nghèo tả tơi nhất thì vào để làm cái việc gọi là “ba cùng” (tức: cùng ăn, cùng ở, cùng làm). Mục đích là làm “công tác điều tra”. Sau đó bọn này về “đội” họp, bàn thảo để quyết định chọn một đối tượng mở đầu, gọi là “bắt rễ”. Từ cái “rễ” này, chúng phát triển thêm một vài đứa nữa, gọi là “sâu chuỗi”. Đến đây thì “cán bộ đội” cùng những “rễ” họp với nhau để lên danh sách các thành phần xã hội của làng xã như ai là chủ tịch; công an xã; là bí thư đảng ủy cộng sản xã; là các đảng phái khác không cộng sản như “Dân chủ”; “Xã hội”, ai là “Đại Việt”, là “VNQDĐ”; là các giáo dân, phật tử v.v…; ai có ruộng, giàu có hay nghèo, có quan hệ trên huyện hay tỉnh, có con đi chiến đấu hay không v.v… Nghĩa là, từ bộ nhớ phần lớn là chủ quan, ước lượng, đôi khi là chỉ nghe nói chứ không mắt thấy, tai nghe của bọn được gọi là “rễ” ấy (hay còn gọi là cốt cán), cán bộ đội cải cách nâng lên thành tài liệu cơ bản dùng cho việc phân định ứng dụng cho cải cách.

Khẩu hiệu của chúng là: “Dựa hẳn vào bần cố nông và trung nông lớp dưới; đoàn kết với trung nông lớp trên; liên hiệp với phú nông, đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến và cường hào ác bá có nợ máu với nhân dân”.

Cái khẩu hiệu nghe nhức tai ấy, nhưng nếu cứ làm thật đúng với nội dung qui định thành phần xã hội, qui định có sản xuất hay có bóc lột; có nợ máu hay có công quản lý làng xã v.v… thì chắc cũng thuận buồm xuôi gió, vì đang trong khí thế “đoàn kết, hy sinh cho độc lập dân tộc và thống nhất đất nước”.

Lữ Phương viết rằng Hồ có công, nhưng cái sai của Hồ là bắt chước chính sách cải cách ruộng đất của Trung cộng mà Lữ Phương gọi là “thất đức”. Có lẽ Lữ Phương không thể nào dùng hai bàn tay ếch để che tội ác của Hồ đã giết nông dân Việt Nam, nên coi sai lầm của Hồ là “lầm lỡ” theo Trung cộng mà rơi vào cái việc làm “thất đức” ấy.

Cách đây độ 40 năm mà hiểu theo kiểu Lữ Phương còn tạm tha thứ được. Nhưng ở thời điểm này, nhiều tài liệu bí mật đã bị “bật mí” vì sự sụp đổ của chủ nghĩa đế quốc đỏ; nhiều chính sách do tập đoàn mafia cộng sản đã và đang tiếp tục thi hành, thì cách nhìn của Lữ Phương hoặc là dốt về lý luận, nghèo nàn về thông tin; hoặc muốn làm đơn xin ngụy quyền Hà-nội khúc xương thừa cho con cháu, vì nay đầu đã trắng rồi mà vẫn trắng tay!

Cần nhớ rằng mọi việc làm của Hồ là chỗ ngồi của hắn và chỗ dựa của hắn là mẫu quốc Nga-xô. Đối với Trung cộng, anh hàng xóm khổng lồ, hắn chỉ lợi dụng mà thôi. Vả chăng, chính nhiệm vụ của hắn mà Nga-xô giao cho cũng là nhằm đối phó với Trung cộng: “Xây dựng phong trào cộng sản ở Đông-nam-á”. Thử hỏi: “Cộng sản Việt Nam hoạt động cũng phải dựa vào sự giúp đỡ của cộng sản Tàu, thế tại sao quốc tế 3 mà trực tiếp là Cục Phương Đông không giao cho cộng sản Tàu làm cái việc “xây dựng phong trào cộng sản ở Đông-nam-á”, mà lại giao cho Hồ?” Bởi vì muốn bao vây cộng sản Tàu thì làm sao có thể giao cho cộng sản Tàu được.

Vì thế sau này, khi đã tiếm được quyền ở Việt Nam, ngụy quyền cộng sản Hồ chí Minh cố tình áp dụng những cách làm của Trung cộng (mà Lữ Phương gọi là “thất đức”) được cực tả hơn nữa. Làm như thế Hồ đạt được hai yêu cầu:

1. củng cố một cách nhanh chóng quyền lực của Hồ và cái hội đoàn Việt gian của hắn;
2. bằng tuyên truyền rỉ tai để nhân dân chán ghét và thù hận Trung cộng.

(Thí dụ cụ thể là đến tận năm 2001 này mà Lữ Phương còn cho là lỗi tại bắt chước Trung cộng, nghĩa là như Lữ Phương viết: “Tất cả đều là những ý định tốt đẹp, nhưng tất cả đều thiếu cái chiều sâu của sự phản tỉnh triết học. Là sự chọn lựa vội vàng từ đầu và cũng là sự trung thành mù quáng về sau.”)

Điểm lại đường đi nước bước của Hồ, từ lúc vào học ở Quốc Học Huế đến khi lặn lội sang Pháp để xin vào học trường thuộc địa, rồi theo quốc tế 3 mà chưa hiểu lý luận, triết học là cái gì, và bước đầu hoạt động là bán cụ Phan Bội Châu v.v… thế mà Lữ Phương hạ bút coi đó là “những ý định tốt đẹp”, có tốt đẹp bằng Lữ Phương được chính quyền miền Nam cho ăn học thành tài để rồi trốn vào bưng thờ ma cộng sản không? Và, cũng có “trung thành mù quáng về sau”, như Lữ Phương, để đến giờ phút này, trước hàng núi tài liệu – cả sách vở, xương máu, cả lăng, tượng v.v… – mà Lữ Phương vẫn thấy Hồ là “ông tiên”!!! Đúng là tên nâng bi có hạng và mặt dày cũng có hạng!

Sự Tích Con Yêu Râu Xanh - Bài 4






Xin nói tiếp về âm mưu trong “cải cách ruộng đất” của họ Hồ.

Giờ ta thử hỏi: Tại sao Hồ không dựa vào “chính quyền” xã và tổ chức “đảng” của Hồ ở xã, mà lại dựa vào cái gọi là “rễ”? Nên nhớ bọn gọi là “rễ” này gần như không tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Nếu có thì cũng chỉ làm những thứ vụn vặt. Bọn chúng đều không có học, có đứa tuổi chỉ độ 15, 16 trở lên, không nghề nghiệp rõ ràng. Hầu như toàn bộ bọn chúng là “lưu manh” ở làng xã. Chúng hoàn toàn bị chi phối bởi cái dạ dày, nghĩa là có ăn thì bảo giết bố mẹ của chúng, chúng cũng làm. Thực ra bọn gọi là “rễ” chính là thành phần “vô sản lưu manh” ở nông thôn Việt Nam. Đối với chúng, cái gọi là đạo đức hay lý tưởng là những món hàng cực kỳ xa xỉ.

Xin trả lời:
1- Hồ không thể dựa vào chính quyền ở xã, vì cái chính quyền ấy là một tế bào của Chính phủ Liên hiệp đa đảng. Quyền lợi của nhân sự trong cái chính quyền ấy gắn liền với quyền lợi của nhân dân toàn xã. Đấy là động lực khiến họ tham gia có hiệu quả công cuộc kháng chiến chống Pháp. Cái chính quyền ở xã thời đó cũng là tập hợp những cá nhân và đảng phái không cộng sản (như Dân chủ, thậm chí cả VNQDĐ) để thực hiện chủ trương chống Pháp, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho toàn dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Liên hiệp đa đảng do Quốc hội Khóa 1 bầu ra.

Xin lưu ý rằng ngay khi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Hồ đã ma giáo cho khai tử Mặt trận Việt Minh và thay thế bằng cái gọi là Mặt trận Liên Việt. Đó là âm mưu của Hồ muốn xóa bỏ công khai sáng tổ chức mặt trận của các cụ Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh v.v… Mặt trận Liên Việt là do Hồ sáng lập, là công cụ quá độ để Hồ tiến tới cái gọi là chuyên chính vô sản – mà nội dung thực sự là thiết lập sự cai trị trọn vẹn của bộ máy cầm quyền thực dân đỏ. Từ Việt Minh tiến tới Liên Việt là bước đầu Hồ khéo léo loại bỏ các đảng VNQDĐ và Việt Cách (của cụ Nguyễn Hải Thần). Đó là hai đối thủ nặng ký nhất mà Hồ ngán, chỉ còn lại hai đảng Dân chủ và Xã hội là hai tổ chức mà Hồ đã cấy được nội gián vào, thí dụ: như Cù huy Cận, Trần đăng Khoa ở đảng Dân chủ; Hoàng minh Giám, Đỗ xuân Sảng ở đảng Xã hội.
Cho nên, nếu dựa vào chính quyền xã thì làm sao Hồ có thể làm sai luật cải cách ruộng đất, biến nó thành biện pháp đảo chính không lộ mặt cái Chính phủ Liên hiệp đa đảng được.

2- Hồ cũng không thể dựa vào tổ chức của cái gọi là “đảng Lao động” (tức cộng sản) được, vì:
a) phần lớn chịu ảnh hưởng của nhóm Trường Chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt;
b) nhưng quan trọng nhất là đa số đảng viên thời đó của cái gọi là đảng Lao động, là do bị Hồ lừa bằng cái bánh vẽ: “vào tổ chức để đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, tự do, hạnh phúc” chứ không phải vì chủ nghĩa cộng sản (tức thực dân đỏ). Họ gia nhập lúc Hồ “mở rộng cửa đảng”. Tóm lại, họ là những đảng viên bị Hồ lừa (chứ không phải là loại “cộng sản theo con đường của ông (tức Hồ)” như Lữ Phương viết). Họ là những người yêu nước thực sự, cho nên tất nhiên họ cũng là đối tượng để tên Việt gian chính hiệu Hồ chí Minh thủ tiêu, ngõ hầu mới có thể áp đặt chủ nghĩa thực dân đỏ.

Đó là lý do Hồ chí Minh phải dựa vào “rễ” để làm cái mà Hồ khoái chí gọi là: “Cuộc cách mạng long trời lở đất ở nông thôn Việt Nam.” Đúng vậy, vì trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ có kẻ nào, lực lượng nào – kể cả phong kiến phương Bắc lẫn thực dân Pháp – làm được cái việc là gài mồi “yêu nước” để cho vào bẫy gần như trọn vẹn những người yêu nước mà tiêu diệt về thể xác, về tinh thần hoăc cả hai.

Thế là, cán bộ đội cải cách cùng với “rễ” nắm trọn mọi quyền hành trong xã. Bọn chúng có trách nhiệm chọn ra 5% dân số bị qui tội danh là: “địa chủ, cường hào gian ác có nợ máu, phản động đội lốt tôn giáo và các đảng phái phản động trèo cao, nằm sâu trong chính quyền và đảng (tức đảng Lao động).” Với cái tội danh mơ hồ đó, bất cứ ai cũng có thể bị gán tội được cả. Vì thế mà hầu như ở xã nào các chủ tịch, phó chủ tịch xã, trưởng công an xã, bí thư và chi ủy viên (đảng Lao động), các đảng viên dân chủ, những người xưa có cảm tình với VNQDĐ, có ảnh liệt sĩ Nguyễn Thái Học; có biết chút tiếng Pháp; có quan hệ họ hàng ở tỉnh, thành; các linh mục công giáo; các sư, sãi có uy tín trong dân v.v… đều bị kết tội.

Các tòa án cải cách ruộng đất được gọi là “tòa án nhân dân”. Chánh án tất nhiên là “rễ”, đã vô học, lưu manh, nhiều khi mới 15, 16 tuổi, vậy mà dám tuyên án tử hình tại chỗ, tịch thu toàn bộ tài sản, bỏ tù hoặc quản chế cái chỉ tiêu 5% của Hồ đề ra.

Qua cải cách ruộng đất của Hồ, bộ mặt nông thôn Việt Nam có diện mạo mới rất đặc biệt mà chưa từng nhen nhúm, hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam ta. Đó là:
1- Một bộ máy cai trị mà những chức vụ chủ chốt như chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký ủy ban v.v…; trưởng và phó công an xã; xã đội trưởng; chủ tịch nông hội, chủ tịch mặt trận; chủ tịch phụ nữ v.v… đều là “đảng viên Lao động” (tức “cộng sản” đã qua thanh lọc hoặc mới được kết nạp);
2- Một tổ chức hoàn toàn mới của cái gọi là “đảng Lao động (tức cộng sản)”. Nghĩa là hoàn toàn không còn những người tưởng rằng vào đảng “để được góp phần chống thực dân Pháp”. Trong “đảng” là loại xuất thân từ vô sản lưu manh, trộm cắp, lười lao động, không biết chuyên môn gì – kể cả nghề nông. Chúng được lôi vào “đảng” vì có công tố láo, giết người cùng làng; vì được hứa chia quả thực, cho vị trí cầm quyền. Chúng một lòng một dạ đi theo Hồ, nguyện là người học trò trung thành của Hồ và phấn đấu vì sự nghiệp của Hồ. Chỉ có vậy thôi.
3- Bước một trong kế hoạch làm cho nông thôn Việt Nam (cả nhân lực, tài lực) trở thành tài sản của Hồ (nghĩa là của thực dân đỏ mà Hồ là người đại diện). Gọi là bước một vì tài sản ở nông thôn được chia cho “rễ”, tạm thời quản lý. Phải chờ đến bước hai, tức là hợp tác hóa, thì Hồ mới tước lại tài sản từ trong tay các “rễ”. Chính thời gian này mà ra đời các cụm từ: “ruộng đất cụ Hồ”; “gạo cụ Hồ”; “dân cụ Hồ”; thậm chí cả “hạt muối cụ Hồ” v.v…
4- Chính quyền xã – cái tế bào của Chính phủ Liên hiệp đa đảng – hoàn toàn bị tiêu diệt. Không những thế, còn bị Hồ bôi nhọ. Từ chỗ là một chính quyền yêu nước, có công lãnh đạo nhân dân địa phương chống Pháp có hiệu quả, nay bị gọi là phản động, là phòng nhì của Pháp, là nằm vùng để phá cách mạng.
5- Các nhân sỹ, các nhà hoạt động tôn giáo, các đảng phái không cộng sản bị hạ nhục, bị vô hiệu hóa, bị khủng bố. Và, kể từ đó chỉ còn những kẻ chỉ điểm của Hồ trong các đảng phái không cộng sản, các hoạt động tôn giáo. Nhưng cũng chỉ được hoạt động theo kiểu làm kiểng “dân chủ” như cái chính phủ mà Lữ Phương đã là thành viên chỉ khi còn ở trong bưng mà thôi vậy.

Chính quyền xã (tế bào của Chính phủ Liên hiệp đa đảng) và tổ chức “đảng Lao động (cộng sản) ở xã bị sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ ở cấp huyện và tỉnh. Thế là, bộ mặt chính phủ vẫn mang diện mạo của “liên hiệp đa đảng” nhưng thực tế nó là một kiểu “hồn Trương Ba da hàng thịt”. Nghĩa là, về hình thức vẫn là “liên hiệp”, nhưng nội dung của nó là “đảng trị độc tài” của Hồ và cái “tập đoàn công dân búa liềm” của hắn. Cuộc đảo chính của Hồ đã thành công trọn vẹn. Máu đổ cũng nhiều, người chết và bị thanh trừng cũng nhiều. Quá trình đảo chính và củng cố ngụy quyền cộng sản đã không chỉ tác hại trực tiếp đến hàng triệu sinh mạng mà nó ảnh hưởng đến toàn bộ nhân dân Việt Nam trong mọi mặt đời sống văn hóa và sinh hoạt chính trị của xã hội Việt Nam. Cái kinh tởm nhất là toàn xã hội – kể cả tụi thống trị – trở thành lũ nói láo, nói điêu, sống vô đạo nghĩa – nói và nghĩ hoàn toàn ngược với nhau. Tỷ dụ: Đói thì nói là no; ghét nói là yêu; bị đàn áp thì nói là được tự do v.v… Cả xã hội chỉ phát triển cơ bắp, bộ óc teo lại chỉ dùng để “ăn, ngủ, đụ, ị” và hô khẩu hiệu mà thôi. Tất cả mọi suy nghĩ là độc quyền của Hồ chí Minh và đầu lãnh mafia đỏ.

Có thể người dân Việt Nam (nhất là cái gọi là “trí thức”) cũng như quốc tế ngu thật, hoặc mơ hồ vì chỉ thấy nguyên nhân máu chảy, người chết và tù đày là từ những cái gọi là “cải cách ruộng đất”, “rèn cán chỉnh quân”, “chỉnh huấn chính trị”, “ôn nghèo nhớ khổ”, “cách mạng văn hóa và tư tưởng”, , “chấn chỉnh tổ chức”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” nghĩa là chính sách quá tả mà ra, vì thế họ không nhận ra rằng Hồ chí Minh dùng những chính sách nói trên làm biện pháp đảo chính Chính phủ Liên hiệp đa đảng, vô hiệu hóa Quốc hội khóa 1.

Cho nên, phải thấy rằng, sau cải cách ruộng đất (ở miền Bắc Việt Nam) thì miền Bắc Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân đỏ Nga-xô. Vì thế, Quốc hội khóa 2 – với thành phần quét rác, mổ heo, loại mù chữ, ngụy quân, công dân búa liềm, sư sãi mộc tồn, linh mục “đơ-mi ca-ri, đơ-mi rô-ti” và v.v… cùng với cái gọi là “hiến pháp 59” chỉ là những lớp son dân chủ giả hiệu trên các bộ mặt hề của chủ nghĩa thực dân đỏ.

Xin được đưa một thí dụ cụ thể chứng minh thấy rõ hơn những điều vừa nêu. Lấy tỉnh Phú-thọ (Bắc Việt Nam) làm một điển hình:
Năm 1945, sau khi quân Nhật phát xít làm đảo chính thực dân Pháp, trong lúc chính phủ của cụ Trần Trọng Kim chưa kịp vươn tới đó thì tuần phủ của tỉnh là Cung đình Vận bỏ trốn. Nhân dân vì nạn đói đua nhau đi phá kho thóc của thực dân Pháp (nghĩa là tự phát làm cách mạng), rồi bầu viên tham tá tòa công sứ Phú-thọ, tên là Nguyễn hữu Chỉnh, làm “quyền tỉnh trưởng”. Tận cuối 1945, vài tên cộng sản núp dưới danh nghĩa Việt Minh, móc nối với Đội Phiên. Khi đó Phiên đang làm quản lý đồn điền cho ông Đốc Lương (có phòng mạch ở Nông-pênh, Cam-bốt) nên có nhiều tá điền. Thế là Phiên được “phong” làm chủ nhiệm tổng bộ Việt Minh tỉnh Phú-thọ. Phiên đem một số tá điền cầm giáo, mác ra cùng chia quyền với ông Nguyễn hữu Chỉnh. Lúc đó Nguyễn văn Nguyên (còn gọi là giáo Nguyên), quê ở Xuân-lũng, phủ Lâm-thao (Phú-thọ), lấy vợ và định cư ở Chí-chủ. Hắn là đảng viên cộng sản do Trường Chinh kết nạp. Sau khi Chính phủ Liên hiệp đa đảng ra đời, theo đề nghị của Hồ là hợp nhất lực lượng vũ trang của các đảng phái trong Chính phủ Liên hiệp ngày 7-1-1946. Hồ đã lưu manh cho họp mặt ăn thề “hợp nhất” lực lượng vũ trang của VNQDĐ ở Yên-bái (Bắc Việt Nam) buổi chiều thì buổi tối cho đánh úp quân của VNQDĐ khiến tư lệnh Nguyễn văn Vĩnh phải tự tử. Một số trốn thoát chạy lên Lao-cai với tư lệnh Triệu việt Hưng. Còn lớp sỹ quan lục quân của VNQDĐ, hầu hết là sinh viên đại học Hà-nội, vì lòng yêu nước bỏ học để học quân sự ở nơi anh hùng liệt sỹ Nguyễn Thái Học đã bị thực dân Pháp giết, được tụi cộng sản làm lễ tiễn về Hà-nội để tiếp tục học ở đại học. Nhưng thực tế chúng đã báo cho Nguyễn văn Nguyên đón bắt hầu hết ở ga Chí-chủ. Nguyên cho trói hai người làm một rồi đưa ra ghềnh Bà Triệu, đâm vài nhát và đẩy xuống chỗ xoáy nước của ghềnh. Trong số thoát nạn có bác sỹ Nguyễn văn Tiếp, sau 1954 di cư vào Nam và từng giữ chức giám đốc bệnh viện Chợ Quán.

Với thành tích giết “người yêu nước” như thế, Nguyễn văn Nguyên được Trường Chinh chỉ định làm “bí thư tỉnh ủy cộng sản” của tỉnh Phú-thọ. Bấy giờ Nguyên mới kết nạp đội Phiên. Đầu năm 1947, vợ đội Phiên cũng được lôi lên Vĩnh-chân (huyện Ấm-thượng, Phú-thọ), dù mù chữ lại vừa già móm và toét mắt, cũng giữ chức chủ tịch phụ nữ Liên khu X, có bà Phan thị An, nguyên hiệu trưởng trường nữ học Hoài Đức (Hà-nội), giúp việc.

Qua cải cách ruộng đất ở tỉnh Phú-thọ, Nguyễn văn Nguyên bị khép tội VNQDĐ và bị bắn chết. Chưa đầy 5 tiếng đồng hồ sau thì có ngựa hỏa tốc đem lệnh của Hồ sửa sai cho Nguyễn văn Nguyên, được tuyên dương là liệt sỹ. Vợ chồng đội Phiên cũng bị còng tay vào tù về tội “liên quan với địa chủ” (tức làm quản lý đồn điền cho ông Đốc Lương). Đội Phiên cắn lưỡi tự tử chết, còn vợ bị đem về bắn chết ở sân đồn điền của ông Đốc Lương (Cẩm-khê, Phú-thọ). Chủ tịch tỉnh là nguyên tham tá tòa sứ Phú-thọ, Nguyễn hữu Chỉnh bị cách chức, khoảng 1957 cho đi dạy học ở trường kinh tế – tài chính (Hà-nội). Trước đó, tuần phủ Cung đình Vận cũng bị bắt và bắn chết.

Quyền hành toàn tỉnh Phú-thọ, sau ngón võ của Hồ, đều nằm trong tay bí thư tỉnh ủy mới của “đảng Lao động” là Vũ Song, do đích thân Hồ chỉ định. Trước đó Song là người được Hồ trực tiếp lựa chọn và giao cho xây dựng “đoàn thanh niên xung phong” (một mỹ tự gắn cho nam nữ thanh niên nô lệ khổ sai).

Thế là Hồ đã chặt chân tay của Trường Chinh ở Phú-thọ qua cái gọi là “cải cách ruộng đất”, cũng như cày nát nhân sự làng Xuân-lũng (phủ Lâm-thao, Phú-thọ), đã từng là cơ sở quan trọng của anh hùng liệt sỹ Nguyễn Thái Học. Sau khởi nghĩa Yên-bái của VNQDĐ, làng Xuân-lũng đã từng bị thực dân Pháp cho máy bay “bà già” bắn phá bỏ bom. Hồ đánh tan nát Xuân-lũng còn hơn Pháp bắn và thả bom rất nhiều, nhằm tiêu diệt tinh thần yêu nước thực sự của người Việt Nam (đó là tinh thần Nguyễn Thái Học).

Trường Chinh rất đau trong vụ Nguyễn văn Nguyên bị Hồ cho giết chết. Hắn lợi dụng cái tuyên dương “vuốt đuôi” là liệt sỹ mà Hồ ban cho Nguyên để đưa con trai Nguyên đi Nga-xô học, rồi khi nắm chức Chủ nhiệm ủy ban khoa học của ngụy quyền Hà-nội, hắn đã đưa thằng con đó của Nguyên vào giữ ghế thư ký ủy ban. Con của tên Việt gian, giết người yêu nước, Nguyễn văn Nguyên đó chính là “giáo sư tiến sỹ” Nguyễn văn Đạo, giám đốc trường đại học quốc gia hiện nay. Đạo là người đọc diễn văn ngày cựu tổng thồng Bill Clinton của Mỹ, đến nói chuyện ở trường này, và Đạo bị một số người trong nước Việt Nam chửi là “vô giáo dục, bất lịch sự”. Chó tất nhiên đẻ ra chó, làm sao đẻ ra cọp được!

Làm “cải cách ruộng đất” là âm mưu thâm độc và quan trọng nhất để Hồ đảo chính Chính phủ Liên hiệp đa đảng, âm thầm biến cuộc chiến tranh chính nghĩa của Chính phủ Liên hiệp đa đảng chống thực dân Pháp thành chiến tranh bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ. Chính vì thế mà bao người đành phải đau lòng rời bỏ kháng chiến để vào vùng Pháp tạm chiếm. Hầu hết còn mơ hồ không lý giải được tình hình lúc đó, lại thêm thiếu tài liệu về con người của Hồ chí Minh cũng như những thực tế tội ác của Hồ và tập đoàn mafia đỏ của hắn, cho nên chia làm hai bộ phận:
1- Một số trùm chăn, mơ mơ hồ hồ, làm cái loa rỉ tai tuyên truyền có lợi cho ngụy quyền Hồ chí Minh.
2- Số khác lợi dụng Pháp để công khai chống ngụy quân, ngụy quyền Hồ chí Minh, nhưng cũng chưa đủ thông tin để hiểu sâu sắc về tập đoàn Hồ chí Minh và cái chủ nghĩa “lá diêu bông” cộng sản; và cũng không có khả năng tổng hợp tội ác của chúng cũng như hoàn toàn thiếu phương tiện để đấu tranh với bọn chúng trên bình diện tuyên truyền thông tin. Trong khi đó, ngụy quyền Hồ chí Minh vẫn núp trong cái lốt Chính phủ Liên hiệp đa đảng, vẫn nắm ngọn cờ “chiến tranh giải phóng dân tộc” của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, lại được mẫu quốc Nga-xô cùng đồng bọn cộng sản ở khắp thế giới đánh bóng, ủng hộ. Điều đáng buồn là có nhiều “trí thức tháp ngà”, nhiều nhà hoạt động xã hội quốc tế có tên tuổi, y như người ngắm trăng bằng mắt để tưởng tượng ra câu chuyện “chị Hằng” và “chú Cuội ngồi gốc cây đa”, ra công tô vẽ cho con quạ đen ngụy quyền Hồ chí Minh thành chim phượng, chim trĩ!!! Chính vì thế mà cuộc đấu tranh của những người đã cảm nhận được Hồ và cái tập đoàn công dân búa liềm của hắn là nguy cơ của dân tộc và đất nước Việt Nam cứ phải ở thế hạ phong.

Với dã tâm lưu manh chính trị đó, ngay từ đầu 1948, Hồ đã đích thân dùng bút danh Trần dân Tiên để tự đánh bóng bản thân với toàn những chuyện phịa. Đó cũng là cái khung, cái mẫu mực mà Hồ vạch ra cho các loại bút nô sau này, tạo thành “một nguồn cảm hứng vô tận” để hình thành những bài tụng ca, và hơn nữa, còn là hình tượng của người đi cứu độ chúng sinh nữa, như Lữ Phương viết.

Tất cả những tên nô lệ thổi kèn nâng bi họ Hồ, dù xuất thân rất khác nhau, đều được Hồ ban cho một chỗ đứng cao ráo trong bậc thang mafia đỏ. Tố Hữu, một tên mà đã có nhận xét về hắn là “mắt khô miệng ướt”, đã vọt lên tới cái ghế ủy viên chính trị bộ đảng Việt gian; Diệp minh Châu được lôi từ đồng bằng Cửu-long, chẳng qua bầu bán, nhảy thẳng ra Việt-Bắc dự đại hội 2, rồi được cùng ăn ở với Hồ để vẽ Hồ. Một năm sau, Hồ cho Diệp minh Châu qua Ba-lan học nghề nặn tượng để chuyên nặn và tạc tượng Hồ. Tên phó máy phố phủ là Đinh đăng Định cũng được Hồ cho ở cạnh để chụp ảnh Hồ trong suốt những ngày ở Việt-Bắc và vài năm sau 1954, được Hồ cho cái ghế “chủ tịch hội nhiếp ảnh”. Tất cả các loại khác từ Nguyễn đỗ Cung đến Mai văn Hiến; từ Hoài Thanh đến Bảo định Giang; cặp bài trùng Cù huy Cận – Xuân Diệu; rồi Nguyễn đình Thi, Lưu hữu Phước, Phạm Tuyên, Đỗ Nhuận; rồi Huyền Kiêu, Hoàng trung Thông v.v… Tóm lại cả một hiệp hội gồm những văn nghệ sỹ, trí thức “không bằng cục cứt” đua nhau ca ngợi Hồ bằng mọi loại hình văn học nghệ thuật và có cả một cái gọi là “ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài” với những Phạm ngọc Thuần (anh ruột nội gián Phạm ngọc Thảo), bác sỹ Nguyễn khắc Viện, Vũ Cận v.v… làm công việc dịch thuật những “tụng ca” đó, có sự tiếp tay của nhóm Việt gian hải ở ngoại là Huỳnh trung Đồng, bác sỹ Nguyễn ngọc Hà v.v… Hồ còn được mấy anh chị làm báo của Tây cộng sản và Tây xã hội làm cái việc “vẽ rắn thêm chân”.

Sự bốc thơm họ Hồ của cả một hệ thống văn nô cung đình, có tầm vóc lớn lao, mà lịch sử các triều đại ở Việt Nam chưa bao giờ có thể hình dung được. Cộng thêm những tên cầm bút người nước ngoài vừa ngu vừa dốt, vừa vô trách nhiệm, đã đổi trắng thay đen sự thực lịch sử, khiến con dê cụ Hồ chí Minh biến thành “ông tiên” của Lữ Phương, tên Việt gian số một trong lịch sử Việt Nam biến thành “anh hùng giải phóng dân tộc”; tên gián điệp quốc tế chuyên nghiệp thành “lãnh đạo cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba”; tên đạo văn thành “hiền triết phương đông”.

Thật đáng buồn là có những người đã từng cầm súng chống thực dân Pháp mà về già, óc nô lệ vẫn còn đặc sệt, đến nỗi viết sách về Việt Nam mà phải nhờ một “ông” Tây cầu chứng cho. Khổ nỗi “ông” Tây này cũng từng là cây bút bố láo có hạng!!!

Thật đáng lo ngại bởi các thế hệ con em chúng ta sau này, chắc chắn sẽ ngả vào đống tài liệu giả đó để mà băn khoăn không biết đâu là thực, đâu là giả, sẽ mất thì giờ tranh cãi và có thể rất nhiều các em sẽ nghĩ Hồ là “ông tiên” thật, hoặc nghi ngờ rằng: “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục” như Lữ Phương đã viết. Vì cho đến nay chưa ai nghiêm túc hệ thống hóa tài liệu, phê phán tài liệu để tìm sự thực nhằm bác bỏ núi tài liệu giả do chính Hồ và ngụy quyền cộng sản mafia Hà-nội sản xuất từ hơn nửa thế kỷ nay, vẫn còn tiếp tục làm hàng giả, đang được những tên mafia đỏ hoặc tay sai của chúng nằm vùng, hoặc lũ cơ hội đi hai hàng, đang tìm cách cho thâm nhập, thẩm thấu dần dần vào cộng đồng người Việt ở hải ngoại, đặc biệt là tầng lớp trẻ. Cây bút của chúng như cái que khều rác, bới loạn xà ngầu, mà cũng chỉ bới ra rác thôi.

Như đã trình bày ở trên, rằng Hồ dùng “cải cách ruộng đất” để đảo chính âm thầm Chính phủ Liên hiệp đa đảng, dựng lên ngụy quyền Hồ chí Minh, lèo lài cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta chống thực dân Pháp thành cuộc chiến bành trướng của thực dân đỏ. Hắn vẫn dùng ngọn cờ giải phóng dân tộc của Chính phủ Liên hiệp đa đảng nhưng những người Việt Nam thức thời, thấy rằng Hồ và tập đoàn mafia đỏ là bệnh tâm phúc của dân tộc còn thực dân Pháp chỉ là cái mụn ghẻ. Vì thế mới có sự hợp tác với Pháp để chống Hồ. Chỉ tiếc là thiếu nhân sự có khả năng, thiếu phương tiện, tư liệu và kỹ năng tuyên truyền và phản tuyên truyền, cho nên bị con cáo già Hồ chí Minh, lợi dụng sự ấu trĩ của nhân dân lúc đó, hoàn toàn mù tịt về tội ác của thực dân đỏ, để khoét sâu thêm sự ngộ nhận của nhân dân trong việc cộng tác với Pháp. (Sau này ngụy quyền Hồ chí Minh cũng múa lại võ này trong cái gọi là “chống Mỹ xâm lược” trong chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ vào miền Nam nói riêng, và toàn Đông-dương nói chung).

Sau cải cách ruộng đất, tất cả những việc làm khác của Hồ như “chấn chỉnh tổ chức” và “sửa sai cải cách ruộng đất” chỉ nhằm mục đích củng cố quyền lực của cá nhân Hồ; củng cố bộ máy thống trị của ngụy quyền Hồ chí Minh; chấn chỉnh lại tổ chức công dân búa liềm, nhằm nhẹ nhàng loại bỏ ảnh hưởng của Trung cộng.

Nhiều người đến nay vẫn tưởng Hồ tự phê về sai lầm trong cải cách ruộng đất là thực lòng, đó là vì họ không dám mở mắt nhìn thẳng vào con người của Hồ. Những huyền thoại về Hồ do chính hắn và tay sai trong và ngoài Việt Nam, do đồng bọn ở nước ngoài, do mẫu quốc đỏ (anh cả Nga-xô, anh hai Trung cộng), do mấy nhân sỹ trí thức nước ngoài thuộc loại “lẩm cẩm muốn nổi danh” đã tô vẽ “rắn thêm chân” làm họ không dám nghĩ rằng Hồ chính là con “mảng xà tinh” trong truyện Thạch Sanh.

Sửa sai thực chất là một cuộc thanh lọc lại, vì thế mới có lý do để cất chức tổng bí thư của Trường Chinh; đuổi Lê văn Lương và Hoàng quốc Việt ra khỏi bộ chính trị mafia đỏ, tước chức đầy quyền lực của Lương là trưởng ban tổ chức trung ương, cho Lê đức Thọ ngồi vào đó và Lê Duẩn được ngồi lên đầu Trường Chinh.

Cũng qua sửa sai, Hồ cho giết một số nữa gồm bọn gọi là “rễ”, nghĩa là cái kiểu sửa gáy “kiêu binh tam phủ”, cho trở lại đời thường một số “bị oan” trong cải cách, để làm đối trọng của lũ kiêu binh mới, gây ra cảnh rình mò nhau, khiến chẳng ai dám trái ý Hồ.

Cũng qua sửa sai, Hồ dùng tay Nguyễn chí Thanh để sửa gáy cả Võ nguyên Giáp, bằng cách cho phép Thanh bắt các đại tá thân cận nhất của Giáp, nghĩa là “cạo nhẵn râu ria của Giáp”. Hào quang “chiến thắng Điện-biên” của tướng Giáp được các nguyên soái Vi quốc Thanh, đại tướng Trần Canh và thiếu tướng La quý Ba của Trung cộng đội cho, bị Hồ dùng cái khố cố nông của Nguyễn chí Thanh chụp lại. Trung tướng ngụy quân Hoàng văn Thái, cánh tay mặt (sau còn là sui gia) của Giáp chẳng tội tình gì mà bị tước chức tổng tham mưu trưởng ngụy quân cộng sản. Cái ghế đó được trao cho Văn tiến Dũng, đại đoàn trưởng đại đoàn Đồng Bằng, và Dũng được đưa lên chức thượng tướng – hơn Thái một ngôi sao! Và Thái thành phó của Dũng!
Tất cả những người thắc mắc, phát hiện ra sai lầm của cải cách ruộng đất đều bị loại thẳng tay như luật sư Nguyễn mạnh Tường; như bộ trưởng tư pháp Vũ đình Hòe v.v… Và, Hồ còn quăng mẹ nó cả cái bộ tư pháp lẫn khoa luật ở trường đại học vào “hố xí”. Từ đó trở đi, lời nói, mệnh lệnh của Hồ là luật. Ngụy quyền Hồ chí Minh cũng cho ra đời cái quyết định tập trung cải tạo không xét xử (mà cũng là không thời hạn) tất cả những ai bị coi là nguy hiểm cho chế độ (thực dân đỏ) hoặc có thể sẽ nguy hiểm (nghĩa là thà sai hơn sót)!!!

Thế mà có biết bao tên điên hoặc vừa điên vừa ngu từ đó cho đến nay, như con đà điểu rúc đầu vào cát, vẫn tin vào sự sửa sai của Hồ là thành khẩn!!!

Hiệp định Genève 1954 cho ngụy quyền Hồ chí Minh tạm thời quản lý miền Bắc Việt Nam tới vĩ tuyến 17.

Trước đó Hồ dùng cải cách ruộng đất để tước đoạt tài sản của nông dân. Nay vào tiếp quản các thành thị, Hồ dùng cái gọi là “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, và qua tay tên nguyên lý trưởng chuyên cờ bạc và nghề hoạn lợn là Đỗ Mười, hắn cho cướp hết tài sản của nhân dân ở thành thị. Nghĩa là hắn đã “vô sản hóa toàn dân Việt Nam ở phía Bắc vĩ tuyến 17”, và tất cả thành nô lệ của thực dân đỏ. Có thể đó là thành tích “lãnh đạo cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba” của Lữ Phương dâng cho Hồ. Bởi bọn Tô Định, Mã Viện, Cao Biền ở phương Bắc và thực dân Pháp cũng không thể nào so sánh được với cái vẩy móng tay của Hồ trong sự nghiệp nô lệ hóa nhân dân Việt Nam cho thực dân đỏ!