Thứ Năm, 5 tháng 6, 2008

Sự Tích Con Yêu Râu Xanh - Bài 13










Nếu trước Tết Mậu Thân (1968), ngày “nhập ngũ” được coi là ngày hội, trống dong cờ mở, tặng lưu niệm v.v… thì sau đó ngày “nhập ngũ” biến thành ngày “bắt lính” thực sự. Địa điểm tập trung phải ở xa chỗ đông dân, và đại diện các đoàn thể đố dám ló mặt lên lớp động viên, dặn dò này nọ. Vũ Quang, bí thư thứ nhất cái gọi là “đoàn thanh niên lao động Hồ chí Minh” đã nhiều lần bị nghe chửi khi đến các nơi tập trung tân binh để động viên, nên sau này cho ăn kẹo cũng không dám vác mặt đến chỗ tập trung tân binh. Nhất là từ ngày tân binh thuộc khu Hoàn Kiếm (Hà-nội) đã chửi Vũ Quang như móc họng, rằng: “Đ… mẹ thằng hiếp dâm vợ người, sao không cho hai thằng con của mày đi làm nhiệm vụ quang vinh này mà lại cho chúng đi Nga, đi Đức học!!!”

Ô-tô chở tân binh cũng rất chật vật, vì họ phá ghế xe, cửa kính, và còn giấu gạch củ đậu ném vào đám đông. Những cuộc chuyển quân vào khu bốn để rồi từ đó thâm nhập miền Nam Việt Nam, hầu hết bằng tàu hỏa, mà đi lúc nửa đêm. Các tàu hỏa bị đóng cửa như chở thú vật. Hai đầu toa tàu có lính mang tiểu liên áp tải, sẵn sàng nhả đạn nếu ai định mở cửa bỏ trốn. Tuyến đường sắt từ Văn-điển (Hà-nội) vào đến Hàm Rồng (Thanh-hóa) lính ngụy nằm phục kích, đề phòng tân binh nổi loạn, cướp tàu.

Cũng từ đó, ngụy quyền Hồ chí Minh đẻ ra cái gọi là “đơn vị giao quân”. Đó là tổ chức của ngụy quân được trang bị hầu hết tiểu liên, có nhiệm vụ “áp giải” lính đưa vào Nam (gọi là đi B), và thường giao quân ở bờ phía Nam bến phà Linh Cảm, rồi chúng quay lại nhận đợt tân binh khác. Tất nhiên lính bị đưa vào Nam hoàn toàn không có vũ khí. Phải vào đến phần miền Nam rồi mới được trang bị để đi làm bia đỡ đạn thi hành “sự nghiệp” của Hồ. Thời kỳ ngụy quyền Hà-nội xâm lăng Căm-bốt, Lê khả Phiêu làm nhiệm vụ tải lính sang Căm-bốt cho Lê đức Anh nướng. Với thành tích đó, Phiêu đã leo lên đến địa vị số 1 của mafia đỏ.

Sau vụ Mậu Thân (1968), nhiều tân binh vẫn tìm cách không chịu đóng vở kịch “sinh Bắc tử Nam” của ngụy quyền Hồ chí Minh, khiến chúng phải lập một nhà tù ở Lai-châu để giam giữ, bắt lao động khổ sai những tân binh đó, mà chúng gọi là “lính B quay”.

Điều đó minh chứng Hồ đã dùng “chuyên chính” để bắt lính chết cho chiến lược bành trướng của thực dân đỏ. “Ông tiên” của Lữ Phương thực sự là kẻ tội phạm tàn bạo nhất, đã cưỡng bức nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam bắn giết nhau vì tham vọng ích kỷ của hắn, tức cái “sự nghiệp Việt gian” của hắn.

Vụ Mậu Thân (1968) đã cho thấy sự trả thù đê hèn, khát máu của ngụy quyền Hồ chí Minh, lên người dân ở Huế, có sự chỉ điểm, đồng lõa của những tên nằm vùng như anh em Hoàng phủ Ngọc Tường, Lê văn Hảo v.v… Còn ở Sài-gòn, chẳng biết Lữ Phương đã góp công như thế nào để dzọt ra bưng được gia nô của “anh hùng giải phóng dân tộc” của Lữ Phương ban cho cái chức “thứ trưởng” hữu danh vô thực, hệt như mấy anh “lý trưởng mua” thời thực dân Pháp. Còn tên nằm vùng Trịnh công Sơn, vẫn tiếp tục sáng tác nhạc “phản chiến”, đóng góp rất tích cực và hiệu quả một trong “ba mũi giáp công” của họ Hồ. Viết nhạc đủ cả mây, gió, lá lủng, nhưng tuyệt đối như mù không thấy nắm mồ tập thể ở Huế để cất lên dù là chỉ một tiếng thở dài. Nhưng khi ngụy quân mafia đỏ lết xích xe tăng trên đường phố Sài-gòn, thì ngay buổi phát thanh đầu tiên của ngụy quân mafia đỏ vào chiều 30-4-1975, Trịnh công Sơn đã hồ hởi ôm đàn hát bài hắn sáng tác: “Nối vòng tay lớn”. Và, ít lâu sau hắn còn ra viếng lăng Hồ. Cha ông ta đã dạy là: “đồng thanh tương ứng”, nên chỉ những kẻ cùng tần số với Trịnh công Sơn mới thương khóc khi hắn bị Diêm Vương tống vào hỏa ngục!!!

Còn ngụy quyền Hà-nội, từ lúc Hồ còn sống cho đến nay, chưa bao giờ chúng cho việc giết dân thường như thế là sai. Nên, còn e ngại, ở Sài-gòn chúng chưa làm, nhưng ở Cần-thơ, chúng đã đặt tên một đường phố là Mậu Thân, tự hào chiến tích giết dân của Hồ! Lữ Phương và những tên than khóc, vinh danh tên mật vụ nằm vùng Trịnh công Sơn có biết điều đó không?(!!!)

*****

Sau thất bại thảm hại của vụ Tết Mậu Thân (1968), Hồ vừa hằn học vì thất bại, vừa bắt đầu ngày đêm tính toán lá tử vi của hắn, cũng như của đứa con hoang với cô bé đưa cơm ở hang Pắc-bó. Hắn lén lút đi Ba-vì nhiều lần, ngắm Hồ Suối hai, là công trình mà hắn lệnh cho Trần quốc Hoàn (bộ trưởng công an) phải bắt tù làm cho xong như ý hắn, cho đúng với bộ vì miếng đất mà hắn đã lén chôn tất cả những cái răng thật của hắn (vì Hồ làm cả hai hàm răng giả ở Nga-xô), hy vọng phát cho đứa con hoang của hắn.

Hồ là người mê và đọc nhiều truyện của Tàu. Một vài người thân cận với Hồ có dịp được nghe Hồ khen hai nhân vật. Một là Tấn văn Công (tức công tử Trùng Nhĩ), và hai là Tào Tháo. Thuở của năm 1944-46, Hồ cho tay chân tung tin là mắt Hồ có hai con ngươi như công tử Trùng Nhĩ (kẻ phải bôn ba 20 năm, trở về cầm quyền nước Tấn và làm nên nghiệp bá). Một trong những kẻ có công tung tin như thế là Xuân Thủy. Còn Tào Tháo, tên tự là Mạnh Đức, Hồ bèn đảo ngược, đặt tên cho thằng con hoang, hy vọng nó sẽ làm nên như Tào Tháo. Vài người biết chuyện này nói đùa với nhau rằng: “Đảo ngược tên của Tào Tháo đặt cho thằng con hoang, Hồ ngu mà không thấy rằng rồi ra thằng đó sự nghiệp cũng sẽ giống như sự nghiệp của Tào Tháo bị đảo ngược. Nghĩa là, Tào Tháo thì từ một cái vỏ gươm (vì lưỡi gươm đã dâng Đổng Trác) và con ngựa già làm nên sự nghiệp. Còn thằng con hoang của Hồ thì dù gia nô của Hồ có đặt sẵn nó lên cái ghế lãnh đạo thì sự nghiệp tương lai sẽ chỉ còn “cái vỏ gươm và con ngựa già” mà thôi!!!

Vài năm trước đây, một số nhà báo và giáo sư sử học ở trong nước có lên tiếng than phiền việc đỉnh núi Tản Viên bị “nhà cầm quyền” địa phương san đi làm miếu thờ. Mafia đỏ mà “làm miếu thờ” thì phải có nguyên nhân thầm kín. Mấy vị nhà báo và giáo sư không hiểu rằng việc làm đó được tiến hành sau khi họ Nông dzọt lên chức chủ tịch quốc hội ngụy quyền Hà-nội, và vào cả bộ chính trị của mafia đỏ nữa. Đấy là nằm trong “lịch trình” của Hồ trước khi chết để lại, không có trong di chúc.

Cả cuộc đời Hồ, hai bàn tay đã vấy đầy máu của nhân dân Việt Nam, của những người Việt Nam đấu tranh cho độc lập, tự do, dân chủ, hạnh phúc và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; cả máu những ân nhân của Hồ; cả máu những “đồng chí” của Hồ, và cả máu trinh của biết bao cô gái trẻ đã phải qua tay con “yêu râu xanh” Hồ chí Minh ấy thế mà con quỷ đỏ Hồ chí Minh, sau vụ thất bại của Tết Mậu Thân (1968) đã sợ chết. Việc viết đi viết lại “di chúc” không phải như lũ bút nô cung đình của Hồ và vài anh “trí thức mọt sách, táo bón kiến thức” tỏ vẻ là Hồ “thanh thản” trước “ngày đi xa”. Chỉ riêng cái việc Hồ né chữ “chết” cũng đủ thấy hắn sợ “chết” đến như thế nào. Hắn tự an ủi là “đi thăm Các-mác, Lê-nin”. Cái điểm son tinh thần Việt gian, trung thành với mẫu quốc đỏ cho đến giờ phút cuối cuộc đời và lời căn dặn ân cần cái tổ chức Việt gian của hắn, rằng phải bảo vệ mẫu quốc đỏ, nên hắn đã được Nga-xô tận tình giúp đỡ ướp xác, xây lăng, vào cái lúc mà cuộc không chiến trên miền Bắc Việt Nam đang ở cao điểm!

Mấy nhà “hư cấu” cố tình chạy tội cho Hồ, dựa vào nội dung “di chúc của Hồ” và tin lọt từ me-xừ Vũ Kỳ, một gia nô tin cẩn của Hồ, trung thành hơn loài bốn chân, để nói rằng nhóm Lê Duẩn đã làm trái nguyện vọng của Hồ là “hỏa thiêu và đừng làm tang lễ linh đình”, v.v…

Cần phải nhớ rằng:

Bản thân Hồ và cái tập đoàn Việt gian của hắn chưa bao giờ làm những gì mà thảo thành văn bản. Hồ cũng như tụi kế nghiệp hắn cho đến nay là Nông đức Mạnh đều làm những điều không tuyên bố công khai.

Thí dụ:

+ Hồ nói là “bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam” thì hắn lại dâng “Hoàng-sa” cho Tàu cộng. Tất cả những gì Hồ viết trong bản tuyên ngôn độc lập “đọc ngày 2-9-1945” chưa bao giờ được Hồ thi hành. Hắn còn làm ngược lại là đằng khác, vì hắn viết cốt để dụ khị lừa đảo nhân dân lúc đó cũng như các thế hệ sau này mà thôi. Thằng con hoang họ Nông của hắn bây giờ cũng thế, đi sang Tàu vừa qua là dâng đất cho Trung cộng.

+ Hồ nói chống tham ô, hủ hóa thì chính hắn là thằng trùm hủ hóa, và những kẻ kế cận của hắn cũng thế. Khù khờ và cái chết kề miệng lỗ như Tôn đức Thắng mà cũng cho xây một biệt thự ở Hải-dương, đóng cửa bỏ đấy, ngay lúc chiến tranh đang ác liệt, dân thiếu ăn, thiếu mặc. Võ nguyên Giáp cũng thế, bao nhiêu biệt thự ở Đồ-sơn không chịu ở, bắt công binh xây mới biệt thự cho hắn, mà phải phá đi xây lại nhiều lần cho đến khi hắn vừa ý mới thôi.

+ Thằng con hoang họ Nông cũng nói chống tham nhũng, nhưng ai mà ủng hộ và phát hiện tham nhũng thì bị đàn áp, bỏ tù. Còn xung quanh nó, có thể nói toàn bộ cái chính trị bộ mafia đỏ của hắn đều có tài sản ăn cắp chí ít cũng hàng trăm triệu đô-la Mỹ mà có thấy chống đâu, mà còn hợp tác toàn diện là đằng khác.

Nếu quả Lê Duẩn đã làm sai ý nguyện của Hồ thì bây giờ bọn chúng sửa lại cái sai của Duẩn đi, cho hỏa thiêu cái thây ướp của Hồ hoặc đem chôn, rồi làm mả cho lớn cũng được. Đằng này, chúng vẫn duy trì cái gọi là “sai” của Duẩn, mà còn làm “quá đáng” hơn nữa là thành lập một bộ tư lệnh bảo vệ lăng, chỉ riêng tiền nuôi đám lính tráng đó cũng tốn cả trăm tỷ mỗi năm; rồi lại bày trò làm lễ chào cờ hằng ngày cũng như bảo vệ cái thây ma Hồ cũng tốn kém rất nhiều nữa.

Tại sao chỉ có Vũ Kỳ nói là Lê Duẩn sai mà mấy thằng thay nhau làm tổng bí thư không dám sửa cái sai đó mà còn làm sai hơn nữa? Đúng như kiểu kết tội Lê Duẩn, Lê đức Thọ về “vụ án xét lại chống đảng”. Đấy nếu không là lệnh miệng của Hồ (lệnh thiệt, còn lệnh trên giấy tờ là lệnh rởm để tuyên truyền mà thôi) thì sao bây giờ họ Nông nắm quyền lực cao nhất, không ra lệnh làm theo “di chúc” cha của hắn, mà vẫn duy trì, còn bày thêm trò dâng hương ở tất cả mọi nơi đánh dấu bước chân Việt gian của Hồ.

Rành rành như vậy mà vẫn cố tình mặc áo “chống đối” để làm việc “chống đỡ”, thật là vừa ngu vừa hèn!!!

*****

Việc Hồ giết Nguyễn chí Thanh và yêu cầu Trung cộng rút công binh về nước là biểu hiện cụ thể cả tư tưởng lẫn hành động của Hồ luôn luôn thống nhất với “di chúc” của Hồ là chỉ nghĩ đến mẫu quốc đỏ Nga-xô và bảo vệ Nga-xô. Hồ hoàn toàn không nghĩ gì đến Tổ tiên Việt Nam. Ngay nội dung cái “di chúc” của Hồ cũng giống mọi điều hắn đã nói và viết, đều nhằm một mục đích duy nhất là lừa đảo lòng tin của nhân dân Việt Nam nói chung kể cả các “đảng viên thường” trong tổ chức mafia đỏ của hắn. Hồ thân Nga-xô hay thân Trung cộng, chắc chắn điều đó cả Nga-xô và Trung cộng đều biết rõ hơn mấy chàng “hư cấu”. Hãy chịu khó đọc lại lời chia buồn khi Hồ chết của Nga-xô và Trung cộng được đăng trên báo Nhân dân, cơ quan nói láo của ngụy quyền Hà-nội, thì sẽ rõ trắng đen! Ai tiếc Hồ và ai ghét Hồ!!!

Tội ác của Hồ không chỉ phát động vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, chấp nhận để nhân dân và đất nước Việt Nam thành vật thí nghiệm và nơi thử nghiệm các loại vũ khí, các chiến lược, chiến thuật quân sự, nơi cho Mỹ và Nga-xô tìm cách làm “chảy máu” của nhau. Hồ vẫn tiếp tục thi hành nhiệm vụ mà mẫu quốc đỏ trao cho khi thành lập tổ chức mafia đỏ, năm 1930, mang tên “đảng cộng sản Đông-dương”. Nghĩa là hắn cho tiến hành vũ trang xâm chiếm cả Căm-bốt và Lào.

Ai có dịp qua thăm huyện Lương-sơn (Hòa-bình) sẽ thấy nhiều trường tập trung dành cho thiếu nhi mà ngụy quyền Hồ chí Minh cho bắt làm con tin, mang từ miền Nam ra, nhất là các em thuộc sắc tộc Khờ-me; mang từ rừng núi Tây Nguyên và Khu năm ra; mang từ Căm-bốt và Lào ra. Từ Hênh Xôm-brin cho đến Hun-xen (thủ tướng Căm-bốt hiện nay) đều ăn học và được đào tạo tại Bắc Việt Nam. Những trẻ em thuở đó được đào tạo để sử dụng hiện nay vậy. Và, thuở đó những gia đình có con em bị đưa ra Bắc, bắt buộc phải hợp tác với mafia đỏ, nghĩa là làm cái việc “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”. Cái hoạt động ấy tất yếu dẫn đến cuộc chiến của mafia đỏ Việt Nam bành trướng sang Căm-bốt và cuộc đụng độ với Ba Tàu cộng ở phía Bắc vào năm 1979!

Tóm lại là, Lê Duẩn chỉ đi theo đúng cái “lịch trình” mà Hồ đã vạch ra khi hắn còn sống, và tiếp tục cái “lịch trình” đó một cách trung thành sau khi Hồ ngỏm!

Kiểu lý luận như Lữ Phương, thì tội xâm lược Việt Nam thời Trần của quân Nguyên-Mông, là do Thoát Hoan chứ vua Nguyên chắc không có tội!

Việc tụi được mafia đỏ phong cho là “trí thức yêu nước” thuở trước 1975, thật ra bọn đó chỉ là một lũ không bằng con chó của Lafontaine, thả mồi bắt bóng. Bởi con chó bị lầm vì nhìn thấy cái bóng dưới nước. Còn lũ này đâu có nhìn thấy cái “bóng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc” đâu vậy mà “thả mồi dzô bưng”.

Xưa, kẻ sỹ một lần “bàn sai” là vô bưng ở ẩn! Vậy mà nay vẫn tồn tại loại “kẻ sỹ” ở bưng nhào ra khua môi, múa bút không biết mỏi mà “đầu trắng vẫn trắng tay”, chẳng ra mafia đỏ cũng chẳng ra chống mafia đỏ; “phi điểu phi thú” như con dơi, tốt nhất là nên trốn trong bóng tối mà ăn muỗi!!!

Năm 1979, Trung cộng có thể dám lùa quân, bất ngờ và nhanh chóng, tiến sâu vào nội địa Việt Nam được dễ dàng, tàn phá, giết bao người dân miền Bắc Việt Nam chính là cái hậu quả tội ác Việt gian của Hồ, đã để Trung cộng đưa quân sang làm đường để di chuyển dễ dàng, để nắm được địa hình, địa vật, tâm lý nhân dân. Và, hơn nữa cái bánh vẽ của Hồ làm dân mất cảnh giác, đó là những khẩu hiệu như “tình huynh đệ bền vững”, nào là “môi với răng”, nào là “tinh thần đoàn kết vô sản cao cả”; nào là như bài hát:

“Việt Nam, Trung hoa
Núi liền núi, sông liền sông
Hồ chí Minh, Mao trạch Đông”.

Những người ở Hà-nội vào năm 1969, làm sao quên được vụ 1-5-1969. Ngày hôm đó từ tinh mơ, học sinh trường trung học Trung hoa dưới sự điều động của “hồng vệ binh”, mang trên tay sách đỏ trích lời Mao. Tất cả đều đeo lung lẳng trước ngực huy hiệu của Mao, to bằng lòng bàn tay, tụ tập cùng Hoa kiều trong hội Hoa liên, để mít-ting chào mừng ngày “quốc tế lao động (1-5)” kết hợp với “ủng hộ Việt Nam chống Mỹ cứu nước”. Đấy là lý do công khai để tụ tập. Nhưng sự thực là sứ quán Trung cộng đã chỉ đạo để biến cuộc biểu tình này thành cuộc đập phá sứ quan Nga-xô. Được tin này, Trần quốc Hoàn (bộ trưởng công an ngụy quyền Hà-nội) te tái báo cáo Lê Duẩn, Trường Chinh và Phạm văn Đồng xin ý kiến giải quyết. Cả bốn tên Việt gian chóp bu mặt xanh như đít nhái, vì nếu để sứ quán “anh cả Nga-xô” bị đập phá có khác gì bằng chứng chúng không có khả năng bảo vệ “Liên-xô thành trì cách mạng thế giới” như Hồ căn dặn và ghi trong các nghị quyết của chúng. Mà nếu dẹp biểu tình của “anh hai Trung cộng” thì cũng bỏ mẹ vì bọn chúng đã đập phá sứ quán Nga-xô đâu. Cả bốn tên quyết định vào xin ý kiến của trùm Hồ. Nên nhớ, giai đoạn đó Hồ đang bịnh. Mặt xưng lên, đi đứng phải có người dìu, và sau đó đúng 4 tháng thì Hồ chết lăn queo.

Khi Hồ được bọn Lê Duẩn báo cáo thì đoàn Tàu biểu tình đã qua Hàng Bông, gần tới cửa Nam, tức là đi bộ chừng 20 phút đồng hồ là tới sứ quán Nga-xô.

Con cáo già gần kề miệng lỗ vẫn còn ma mãnh hơn lũ đệ tử. Vừa nghe báo cáo dứt lời, Hồ ra lệnh “kéo còi báo động như có máy bay Mỹ vậy, đuổi hết đoàn biểu tình xuống hầm cho đến khi nào đoàn biểu tình mệt mỏi tự tan hàng ngũ, đuổi chúng quay về Hội Hoa liên hãy kéo còi báo yên.”

Ngày 1-5-1969 là ngày đầu tiên Hà-nội “báo động máy bay Mỹ” liên tục gần 6 tiếng đồng hồ liền. Với lý do thi hành lệnh phòng không bảo vệ tính mạng cho người đi đường, công an bỏ áo màu chó vàng, mặc thường phục, đóng vai “thanh niên cờ đỏ” cùng với “thanh niên cờ đỏ” thứ thiệt và tự vệ đường phố, đã nhã nhặn hướng dẫn đoàn biểu tình vào hết các hầm trú máy bay ở Cửa Nam, ở Ngõ Cấm Chỉ và suốt đường Phùng Hưng, đường Quán Sứ v.v… Cái nóng tháng 5, lại nằm trong hầm kín, nhiều tên biểu tình bị ngất vì thiếu không khí. Và, chỉ chưa đầy hai tiếng đồng hồ sau, nhiều tên phải chui ra khỏi hầm, được “thanh niên cờ đỏ” hướng dẫn quay đầu trở lui về phố Hàng Buồm. Để cho chắc ăn, tận xẩm tối mới kéo còi báo an.

Chuyện này, nhà “trí thức yêu nước” Lữ Phương có thể hỏi nhiều người dân thường lẫn quan lại mafia đỏ ở Hà-nội hồi đó đều biết, chắc chắn kể cả gia nô tin cẩn của Hồ là Vũ Kỳ. Như vậy, là những việc quan trọng, cho tới ngày sắp chết Hồ vẫn được hỏi ý kiến và cho những lệnh quyết định chứ không phải “bị cho ra rìa” hoặc bị Lê Duẩn bắt Hồ phải tống cổ cô con gái Tây lai của Hồ về Pháp như người ta “hư cấu” để chạy tội cho Hồ, để gây lòng ái ngại cho Hồ mà tội nghiệp cho tên đại Việt gian, đại gian hùng loại siêu trong suốt bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam cho đến nay!

Gần cả năm trước khi chết, Hồ ra công soạn “di chúc” viết đi viết lại mà vẫn lưu bản nháp. Một con người như Hồ đã thể hiện bản chất nhất quán suốt đường đi của hắn đến quyền lực, làm sao không dặn dò tỷ mỷ mọi chi tiết rằng sau khi hắn chết thì phải làm gì.

Hồ từng hỗn láo khi đứng trước đền thờ Đức Thánh Trần, rằng:

“… Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dẫn năm châu đến đại đồng…”

Một con người với khẩu khí như vậy, tự tay mình cướp được quyền lực cho bản thân và đồng bọn, sẵn sàng giết tất cả những ai trở ngại trên con đường đi đến quyền lực, làm sao có thể đóng vai Chúa Chổm để Lê Duẩn đóng vai Trịnh Kiểm! Cho nên việc xây lăng ở cạnh “phủ chủ tịch” là ý nguyện của Hồ. Hắn muốn làm cái việc của Lê-nin là “dẫn năm châu tới đại đồng” thế tất cũng muốn theo gương Lê-nin để có cái lăng và ướp xác nằm ngay giữa thủ đô. Lăng Lê-nin ở Quảng trường đỏ, gần điện Krem-lin, thì đương nhiên lăng họ Hồ ở Quảng trường Ba-đình và gần “phủ chủ tịch”. Khi sống hắn đã nghênh ngang đứng trên lễ đài bắt nhịp cho mọi người hô hắn “vĩ đại”, làm sao khi chết hắn lại chịu “không vĩ đại” bằng các vua nhà Nguyễn được chứ!

Còn một điều nữa, mà ngay những người không “nghiên cứu” nhiều về ngụy quyền mafia Hồ chí Minh cũng biết chí ít là trong ngụy quân cộng sản thì Võ nguyên Giáp và Nguyễn chí Thanh không ưa nhau; trong chóp bu mafia đỏ thì Lê Duẩn và Trường Chinh kình nhau. Nếu những nhà “hư cấu” cho rằng Hồ và Giáp cùng phe và bị nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ kiềm chế. Như vậy là nội bộ chóp bu mafia đỏ có ba phe:

1. Lê Duẩn, Lê đức Thọ và v.v…

2. Hồ và Giáp và v.v…

3. Trường Chinh, Hoàng quốc Việt và v.v…

Thử hỏi rằng Hồ có phải là loại cù lần đến mức không biết liên kết với bọn Trường Chinh mà chơi lại nhóm Lê Duẩn hay sao? Thủ đoạn này chỉ là mẹo vặt làm sao so sánh với âm mưu thâm độc khác của Hồ!

Các vị “hư cấu” có bao giờ đặt ra các câu hỏi như:

- Tại sao đại hội 3 (1960) của mafia đỏ phải hoãn ba lần để đến 1976 mới tổ chức đại hội 4?

- Tại sao Hồ chết đi mà trong đảng mafia đỏ bỏ luôn cái chức “chủ tịch đảng”, và Lê Duẩn nếu là kẻ nắm trọn vẹn quyền lực sao không ngồi luôn cái ghế “chủ tịch nước” như Hồ, mà phải để hai anh già bù nhìn đỏ là Tôn đức Thắng và Nguyễn lương Bằng vào các chức vụ “chủ tịch” và “phó chủ tịch”?

Chẳng phải các vị “hư cấu” không biết chuyện đó cũng như không có khả năng giải đáp các vấn đề đó, mà vì các vị chót “hư cấu” ra cái chuyện “Hồ bị ra rìa” để chạy tội cho Hồ, nên há miệng mắc quai. Nào trích ý của một tên gia nô của Hồ là Vũ Kỳ và tên gia nô của Lê Duẩn là Trần Quỳnh, nhưng chẳng bao giờ nhìn vào sự thực trắng đen rõ ràng để phán đoán.

Sau đại hội 3 mafia đỏ (1960), phải hoãn 3 lần trước hết vì cả nhóm Lê Duẩn lẫn Trường Chinh đều quân bằng lực lượng trong bàn tay cầm cân, nẩy mực của Hồ. Cho nên nếu mở đại hội thì sẽ hỗn loạn về nhân sự vì đấu đá mà quên nhiệm vụ “chuyên chính” ở miền Bắc và xâm lược ở miền Nam. Bởi vậy “chủ tịch đảng” là Hồ không cho mở đại hội.

Sau khi Hồ chết, để lại cái “gia sản quân bình lực lượng” đó, nên cả Lê Duẩn, cả Trường Chinh đều không đủ hậu thuẫn tuyệt đối nên cũng chưa dám tổ chức đại hội và chưa đứa nào đủ mạnh để tranh lấy cái ghế “chủ tịch nước”, vì thế mới đến lượt Tôn đức Thắng và Nguyễn lương Bằng là hai tên “ngu si hưởng thái bình” như các cụ nhà ta xưa đã nói vậy. Cái ghế “chủ tịch đảng” cũng đành bỏ luôn.

Kể từ đó, hai nhóm Lê Duẩn và Trường Chinh đều ngấm ngầm bố trí nhân sự, ra mặt bao che tay chân. Thí dụ cụ thể, như việc Phạm văn Đồng “vô tình” vào Hà-tây, theo đơn khiếu nại của tập thể giáo viên ở thị xã Hà-đông, đã cách chức hiệu trưởng của mụ vợ của bí thư tỉnh ủy Hà-tây, là Bạch thành Phong. Sau đó Bạch thành Phong chỉ đạo đại hội đảng bộ của tỉnh để đề cử và bầu vợ hắn vào làm “tỉnh ủy viên” phụ trách trưởng ban tuyên huấn, nghĩa là mất chức hiệu trưởng mà lại được tiến cử lãnh đạo cả ba ty là giáo dục, y tế và văn hóa thông tin. Chuyện này được “báo cáo” cho cả Phạm văn Đồng và Lê đức Thọ, nhưng vẫn huề cả làng, vì Bạch thành Phong là đệ tử ruột của Trường Chinh và được Trường Chinh bao che.

Chuyện còn đi xa hơn nữa khi Lê Duẩn “đày” bà vợ cả “già và xấu” của Lê Duẩn xuống Hải-phòng, công tác ở báo Hải-phòng Kiến thiết, đã bị me xừ phó tổng biên tập uống mật gấu “vuốt râu hùm”. Chuyện đổ bể, Trường Chinh vội cho đưa anh chàng phó tổng biên tập bị bệnh to gan đó về Hà-nội, nằm ở phố Lý Thường Kiệt, giữ cái ghế vụ phó vụ xuất bản kiêm phó giám đốc nhà xuất bản Phổ thông (nghĩa là lên chức). Tất nhiên Lê Duẩn phải tức giận, nhưng “nghĩ đến đại sự” nên lờ đi, chỉ lệnh đưa bà vợ già đó qua Bắc-kinh lạnh lẽo như lãnh cung, công tác ở sứ quán đến chết!

Chính cái thực tế của hai nhóm kình chống nhau trong nội bộ tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ là nhóm Lê Duẩn và nhóm Trường Chinh càng chứng minh việc “Hồ bị ra rìa”, Lê Duẩn làm sai di chúc của Hồ, đổi ngày Hồ chết, hoàn toàn là âm mưu của mafia đỏ chạy tội cho Hồ, biến Hồ thành thần tượng “vĩnh cửu” phục vụ cho quyền lợi vị kỷ của một thiểu số đầu lãnh mafia đỏ cầm quyền.

Nếu chỉ để cho bọn gia nô cung đình làm việc “phục chế” lại bộ mặt Việt gian khát máu của Hồ thì hiệu quả tuyên truyền bị hạn chế, vì nhân dân Việt Nam phần lớn đã ngấy dàn kèn đồng bốc thơm của gia nô mafia đỏ, cho nên tập đoàn chóp bu mafia đỏ đã láu cá bằng cách này, cách khác (như việc rò rỉ “tin thâm cung” qua miệng Vũ Kỳ chẳng hạn) khiến cho một số ngòi bút hoặc cơ hội, hoặc “lẩn thẩn” đã vô thức hoặc hữu thức tích cực tham gia viết chạy tội cho Hồ, mà cũng là chạy tội cho tập đoàn Việt gian mafia đỏ.

“Thử hỏi, tại sao nếu Lê Duẩn làm sai thì Trường Chinh phải lợi dụng việc đó mà “đấu” Lê Duẩn chứ. Việc Trường Chinh đồng lõa với Lê Duẩn chỉ có thể giải thích rằng tất cả những điều Lê Duẩn đã làm đều theo đúng ý nguyện của Hồ với bằng chứng vững chắc.

“Thử nghĩ xem, nếu mọi người đều biết Lê Duẩn cho “Hồ ra rìa” từ lâu (1956), thì Lê Duẩn cố tình xây lăng cho Hồ để làm gì? Để đời đời nhớ đến việc cái kẻ nằm trong lăng đã bị Lê Duẩn “cho ra rìa” hay sao? Việc xây lăng cho Hồ chẳng giúp ích gì cho Lê Duẩn, nếu không nói là thêm khó khăn vì lúc đó cuộc chiến xâm lược miền Nam đang ác liệt.

Tiết lộ của Hoàng văn Hoan sau khi trốn sang Trung cộng là bất khả tín. Vì thứ nhất, Hoan là tên Việt gian chính hiệu do Trung cộng nhào nặn, nuôi dưỡng cài vào lòng tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh. Từ khi Hoan còn là ủy viên loại chót bảng của chính trị bộ mafia đỏ kiêm phó chủ tịch quốc hội ngụy quyền Hà-nội sau khi Nguyễn chí Thanh bị Hồ khử, thì rất nhiều người ở miền Bắc biết Hoan chỉ còn chức vụ như làm cảnh, cho “anh hai Trung cộng” khó mở miệng trong kế hoạch đu dây của Hồ. Vì thế Hoan chẳng làm gì ở Việt Nam, phần lớn thời gian là sang Tàu lục địa dưỡng bệnh, có về đến Hà-nội thì lại cả ngày hú hí cô bồ nhí tên là Hoa, ở căn vi-la trên đường Quan-thánh (gần Hồ-tây). Nghĩa là chẳng bao giờ Hoan họp chính trị bộ, vì biết những việc quan trọng hễ có mặt Hoan thì hoãn cách này cách khác cho đến khi Hoan vắng mặt. Đúng như Xuân Thủy đã nói với AFP ngày Hoan bỏ trốn. Hoan chửi Duẩn làm sai đường lối của Hồ, chẳng qua là đi tìm sự ủng hộ trong “cán bộ đảng viên” và trong nhân dân Việt Nam còn u mê chưa nhận rõ bộ mặt Việt gian của Hồ. Có thế thôi.

Còn tiết lộ của Trần Quỳnh và, nhất là Vũ Kỳ, chỉ là âm mưu của tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ muốn Hồ là kẻ ăn ốc mà Lê Duẩn (vì đã chết) làm kẻ đổ vỏ. Cũng có thế thôi, vì đó là thời kỳ Trường Chinh quay lại cầm chịch! Nhưng chúng cũng không dám công khai đề cập đến chuyện đó cho đúng tầm quan trọng của nó, mà chỉ là “chuyện hành lang”!!!


Không có nhận xét nào: