Hiển thị các bài đăng có nhãn Tài liệu tội ác của Hồ chí Minh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tài liệu tội ác của Hồ chí Minh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 26 tháng 11, 2009

HỒ CHÍ MINH VÀ HỘI TAM ĐIỂM


Trần Gia Phụng,
1.- NGUYỄN ÁI QUỐC VÀO HỘI TAM ĐIỂM

Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử hiện đại hoạt động kín đáo, thường thay tên đổi họ, và thường che giấu hành tung của mình. Một trong những điều được ông che giấu suốt đời là việc ông gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) Pháp năm 1922. Hồ Chí Minh đã dùng tên khác, viết sách để tự ca tụng mình, nhưng hoàn toàn không hé lộ một tý nào về việc ông gia nhập hội Tam Điểm. Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) cũng tránh né không nói đến trong các bản tiểu sử của Hồ Chí Minh.

Tài liệu bằng tiếng Việt đầu tiên và duy nhất lưu hành ở Hà Nội, nói về việc Hồ Chí Minh gia nhập Hội Tam Điểm có lẽ là sách Nguyễn Ái Quốc tại Pari 1917-1923, Nxb: Thông Tin Lý Luận ấn hành năm 1989, tác giả là bà Thu Trang. Trong sách nầy, bà Thu Trang viết rằng: “Theo một mật báo đã ghi ngày 14 tháng 6 năm 1922, Nguyễn Ái Quốc được chấp nhận vào Hội Franc-Maçonnerie (Tam điểm)...” (tr. 201.)

Mẩu tin nầy không bị ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương đảng CSVN kiểm duyệt hay gạch bỏ, có thể nhờ câu tiếp theo của bà Thu Trang: “Điều nầy chứng tỏ là Nguyễn Ái Quốc đã đến với bất cứ tổ chức chính trị nào có tính cách tiến bộ. Mặc dù theo truyền thống, Hội trên chỉ dành cho giới giáo sĩ, quý tộc hoặc những nhà trí thức bác học tên tuổi v.v... Nguyễn Ái Quốc được chấp nhận vào hội nầy là do được sự giới thiệu (ít nhất phải có hai hội viên cũ giới thiệu) như một nhà báo lỗi lạc, hay một nhà cách mạng đã có tên tuổi? Khó mà đoán được...” (tr. 201.)

Cần chú ý các điểm: 1) Bà Thu Trang không phải là người Việt ở trong nước, mà bà đã định cư ở Paris từ năm 1961. Bà được Nhà xuất bản Thông Tin Lý Luận Hà Nội giới thiệu là “một nữ trí thức Việt kiều ở Pháp, với lòng tôn kính Bác Hồ”(Lời nhà xuất bản, tr. 5.) 2) Năm xuất bản là năm 1989, tức 20 năm sau khi Hồ Chí Minh qua đời (1969). Năm đó, nhà cầm quyền cộng sản các nước trên thế giới tương đối cởi mở, kể cả Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, nên mẩu tin nầy không có gì làm mất uy tín đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN). 3) Đa số người Việt trong nước ít biết Hội Tam Điểm là hội gì, chủ trương như thế nào?

Hội Tam Điểm (Franc - Maçonnerie do tiếng Anh: Freemasonry) nguyên là một hội đoàn giáo dục, nhắm truyền bá cho hội viên một triết lý sống có đạo đức. Xuất hiện ban đầu ở Anh vào thế kỷ 17 như một nhóm nghề nghiệp (thợ nề, thợ chẻ đá). Về sau nhóm trở thành một hội đoàn hướng đến lý tưởng cao cả như bác ái (fraternity) , bình đẳng (equality) và hoà bình (peace). Dần dần hội cho gia nhập cả những người giàu có hoặc có địa vị trong xã hội. Lý tưởng chấp nhận tự do tín ngưỡng và bình đẳng giữa mọi người của hội Tam Điểm đi đôi với chủ nghĩa tự do thời thế kỷ 18. Hội Tam Điểm phổ biến ở các nước nói tiếng Anh, bị Giáo hội Ky-Tô giáo La Mã chống đối, vì Giáo hội cho rằng hội Tam Điểm tranh quyền với Giáo hội. Do đó, hội Tam Điểm không được chấp nhận ở các quốc gia theo Ky-Tô giáo La Mã. Dầu vậy, dần dần hội Tam Điểm phát triển khắp nơi. Hiện nay, trên thế giới, hội Tam Điểm đông nhất là hội Hoa Kỳ, chiếm khoảng 75% hội viên toàn cầu. Có nơi hội Tam Điểm chia ra thành nhiều phái và có khi chống đối nhau.(1)

Như thế, tuy cùng đề cao lý tưởng và quyền lợi công nhân, nhưng hội Tam Điểm phóng khoáng, tự do, trong khi đảng Cộng sản là một tổ chức chính trị độc tài và hai bên rất chống đối nhau. Nguyễn Ái Quốc đã gia nhập đảng Cộng Sản Pháp từ cuối năm 1920 đầu năm 1921. Nguyễn Ái Quốc chuyển qua hội Tam Điểm là hội đối nghịch với đảng CS vào năm 1922. Bà Thu Trang giải thích rằng “Điều nầy chứng tỏ là Nguyễn Ái Quốc đã đến với bất cứ tổ chức chính trị nào có tính cách tiến bộ...” Tuy nhiên, xin đừng quên một điều là lúc đó, đời sống Nguyễn Ái Quốc tại Paris rất khó khăn. Tình trạng nghèo khó nầy được ông mô tả lại khá rõ trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch dưới bút danh Trần Dân Tiên. Phải chăng Nguyễn Ái Quốc vào hội Tam Điểm để tìm kiếm một cơ hội thăng tiến mưu sinh mới?

Nguyễn Ái Quốc vào Hội Tam Điểm ngày 24-6-1922, thì trong tháng 7-1922, Nguyễn Ái Quốc hai lần gặp gỡ Phạm Quỳnh tại Paris, cũng là một nhân vật Tam Điểm Việt Nam. Nguyên lúc đó, vua Khải Định (trị vì 1916-1925) hướng dẫn phái đoàn Việt Nam sang dự cuộc đấu xảo (hội chợ triển lãm) ở Marseille (Pháp). Phạm Quỳnh tháp tùng theo phái đoàn nầy. Lúc đó, Phạm Quỳnh là một nhà báo, nghị viên Hội đồng thành phố Hà Nội, và đã gia nhập Hội Tam Điểm ở Hà Nội.

Theo lời mời của chính quyền Pháp, Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale) ngày 31-5-1922 về đề tài “Sự tiến hóa về đường tinh thần của dân Việt Nam từ ngày đặt bảo hộ đến giờ”. Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp.

Trong thời gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi nhật ký là đã gặp gỡ những “chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi”, và không nêu tên những người ông đã gặp trong nhật ký. Tuy nhiên, trên sổ lịch để bàn, Phạm Quỳnh ghi rõ: [Thứ Năm, 13-17]: “Ăn cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Villa des Gobelins)”. [Tờ lịch Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” [Chủ nhật 16-7] [Chuyền có thể là Nguyễn Thế Truyền.] (Xin xem phần tài liệu phía dưới.)

Vài tháng sau khi gia nhập Hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quốc ra khỏi hội nầy và suốt đời giấu kín việc vào hội Tam Điểm vì một điều dễ hiểu, hội Tam Điểm đối nghịch với đảng CS. Vậy phải chăng vì Phạm Quỳnh biết rõ chuyện Nguyễn Ái Quốc gia nhập hội Tam Điểm ở Paris sau hai cuộc tiếp xúc vào tháng 7-1922, mà Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc, ra lệnh thủ tiêu Phạm Quỳnh ngày 6-9-1945, tại một địa điểm cách Huế 20 km, để giấu kín bí mật của mình?

Theo lời tác giả Thu Trang, “Nguyễn Ái Quốc đã không ở lâu trong Hội nầy [Tam Điểm], vì cuối năm 1922 trên báp L'Humanité, Nguyễn Ái Quốc đã thẳng tay chỉ trích hội ấy với những lời lẽ hết sức cứng rắn.”(sđd. tr. 201.) Thật ra, lý do chính Nguyễn Ái Quốc dứt điểm hội Tam Điểm, vì lúc đó ông được đại diện Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản mời sang Nga hoạt động. Lời mời nầy vẽ ra trước mắt ông một cơ hội thăng tiến mưu sinh mới.

Nguyên vào tháng 10-1922, D. D. Manuilsky, đại diện ĐTQTCS, từ Moscow qua Paris dự Đại hội kỳ 2 đảng CS Pháp. Nhân đó Manuilsky mời Nguyễn Ái Quốc sang Moscow tham gia Hội nghị Quốc tế Nông dân vào năm 1923.(2) Sự việc nầy có nghĩa là Manuilsky chọn Nguyễn Ái Quốc để đưa qua Liên Xô huấn luyện. Nhận được lời mời Manuilsky, Nguyễn Ái Quốc vĩnh biệt hội Tam Điểm.

Ra khỏi hội Tam Điểm để gia nhập một tổ chức khác thích hợp với mình hơn, là chuyện bình thường. Chuyện bất bình thường ở đây là vào tháng 6 tuyên thệ gia nhập hội Tam Điểm, thì khoảng chưa đầy nửa năm sau, Nguyễn Ái Quốc lại “thẳng tay chỉ trích hội ấy với những lời lẽ hết sức cứng rắn.”(Bà Thu Trang, đã dẫn.) Ngay từ lúc nầy, mới bước vào con đường chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã tự chứng tỏ là một con người “cơ hội chủ nghĩa”, vừa lật lọng, vừa phản bội.

Bên cạnh sách bằng tiếng Việt, bà Thu Trang, với tên Thu Trang-Gaspard viết lại chuyện Nguyễn Ái Quốc ở Paris bằng tiếng Pháp, nhan đề sách là Hồ Chí Minh à Paris (1917-1923), do Nxb. Éditions L'Harmattan ấn hành tại Paris năm 1992, nội dung giống sách trên.

Về việc Nguyễn Ái Quốc gia nhập hội Tam Điểm, ngoài những tài liệu của bà Thu Trang trên đây, còn có một số tài liệu chi tiết hơn của các tác giả Pháp. Một trong những người nầy là Jacques Dalloz. Ông viết sách Francs-maçons d'Indochine, Paris: Éditions Maçonniques de France, 2002. Sách nầy trình bày đầy đủ những nhân vật Tam Điểm ở Việt Nam, trong đó có Phạm Quỳnh và Nguyễn Ái Quốc.

Riêng về Nguyễn Ái Quốc, ngoài sách trên, trong bài báo nhan đề “Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale” [Người Việt trong hội Tam Điểm thuộc địa], tạp chí Revue française D'Histoire d'Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française d'Histoire d'Outre-mer, tr. 105, Jacques Dalloz viết: : “Vào đầu năm 1922, do sự giới thiệu của một nhà chạm trỗ tên là Boulanger, ông ta dự lễ gia nhập của tổ Fédération universelle (Paris GODF). Phiếu của ông ta ghi là: “Nguyễn Ái Quấc, sinh ngày 15-2-1895 (Việt Nam), thợ tô sửa hình, thợ vẽ.” (tạm dịch từ nguyên bản Pháp văn là: “Au début de 1922, il s'est présenté à l'initiation de la loge la Fédération universelle (Paris GODF), recommandé par le graveur Boulanger. Sa fiche indique: “Nguyen Ai Quâc, né le 15-2-1895 (Annam), retoucheur en photo, dessinateur”.) (3)

Trong mệnh đề nầy có hai điều đáng chú ý: Thứ nhất là danh xưng Nguyễn Ái Quấc và thứ hai ngày sinh của Nguyễn Ái Quấc.

2.- DANH XƯNG NGUYỄN ÁI QUẤC (QUỐC) và HỒ CHÍ MINH

Danh xưng Nguyễn Ái Quấc (Quốc) lúc đầu không phải là tên một người, mà là tên chung của bốn người. Đó là Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành.(4) Cả bốn ông (Trinh, Trường, Truyền, Thành) cùng dùng một bút hiệu chung là Nguyễn Ái Quốc, đồng ký bản “Revendications du peuple annamite” [Thỉnh nguyện thư của dân tộc Việt], bằng Pháp văn do Phan Văn Trường viết, gởi cho các cường quốc trên thế giới, đang họp Hội nghị Versailles (Paris) sau thế chiến thứ nhất, bắt đầu từ 18-1-1919. Thỉnh nguyện thư của các ông xuất hiện lần đầu trên báo L'Humanité [Nhân Đạo] ngày 18-6-1919.

Trong bốn người cùng dùng chung biệt hiệu (Nguyễn Ái Quốc), Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường sống và hoạt động chính trị tại Pháp khá lâu, đang bị mật thám Pháp theo dõi, không tiện ra mặt. Nguyễn Thế Truyền (1898-1969) là sinh viên du học, đang hưởng học bỗng của Pháp để theo học ngành hóa học,(5) nên không thể công khai chống Pháp.

Chỉ có Nguyễn Tất Thành là người mới đến, chưa bị mật thám chú ý. Nguyễn Tất Thành tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh tại Nghệ An, con ông Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929) và bà Hoàng Thị Loan. Lúc nhỏ, Nguyễn Sinh Cung học chữ Nho, rồi chuyển qua tân học, theo chương trình Pháp. Sau khi đậu tiểu học khoảng năm 17 tuổi, Nguyễn Sinh Cung vào học lớp nhất niên (năm thứ nhất bậc trung học tức lớp 6 ngày nay) trường Quốc Học (Huế) năm 1907.

Một người bạn học cùng lớp với Nguyễn Sinh Cung ghi nhận lúc học Quốc Học, Cung vẫn mang tên nầy. Tài liệu nầy cho biết thêm rằng đang học lớp nhất niên trường Quốc Học [tương đương với lớp ngày nay], Cung cùng học sinh Quốc Học tham gia biểu tình trong vụ Trung Kỳ dân biến tại Huế tháng 4-1908. Pháp đàn áp cuộc dân biến. Cung lo sợ bị bắt, liền bỏ học, trốn vào nam.(6) Ông ghé Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, rồi làm giáo viên dạy Quốc ngữ và chữ Pháp ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) vào năm 1910, với tên mới là Nguyễn Tất Thành.(7) Như vậy, có thể Nguyễn Sinh Cung đổi tên thành Nguyễn Tất Thành trong khoảng thời gian nầy.

Trong khi đó, phụ thân của Nguyễn Sinh Cung là Nguyễn Sinh Huy (tên cũ là Nguyễn Sinh Sắc) đang làm thừa biện [thư ký] bộ Lễ ở Huế, được bổ làm tri huyện Bình Khê (Bình Định) tháng 5-1909, tức được thăng chức. Điều nầy chứng tỏ Pháp và triều đình Huế lúc đó không quan tâm đến hoạt động của học sinh Nguyễn Sinh Cung, nên không ghép Nguyễn Sinh Huy vào tội không biết dạy con và mới cho phụ thân của Cung thăng quan. Năm sau (1910), quan huyện Nguyễn Sinh Huy dùng roi mây đánh chết người nên bị sa thải.

Dạy học tại trường Dục Thanh được nửa năm, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn, lấy tên là Ba, xin làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche-Tréville và theo tàu nầy rời Sài Gòn, đi Pháp ngày 5-6-1911. Ông đặt chân đến Marseille, hải cảng miền Nam nước Pháp, ngày 6-7-1911.

Sau hơn hai tháng có mặt ở Pháp, Nguyễn Tất Thành viết tay hai lá đơn đề ngày 15-9-1911, có nội dung giống nhau; một gởi cho tổng thống Pháp, một gởi cho bộ trưởng bộ Thuộc địa Pháp, xin vào học École Coloniale (Trường Thuộc địa) ở Paris, nơi đào tạo những quan chức cho các nước thuộc địa Pháp. Đơn của Nguyễn Tất Thành bị người Pháp từ chối.

Nguyễn Tất Thành tiếp tục đi tàu biển một thời gian. Sau đó, ông cư trú ở Luân Đôn (London), thủ đô của Anh. Giữa năm 1919, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, tiếp xúc với nhóm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Nhờ sự giới thiệu của ba người nầy, Thành bắt đầu làm quen với giới chính trị Paris, nhất là giới chính trị đối lập với chính phủ Pháp.

Sau khi cả bốn người cùng ký bản “Revendications du peuple annamite”, ba người trước tránh mặt vì lý do an ninh, Nguyễn Tất Thành thường đại diện nhóm, dùng tên Nguyễn Ái Quốc để liên lạc với báo giới và chính giới. Có thể do đó, dần dần Thành dùng luôn bút hiệu Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của ông. Trong suốt cuộc đời còn lại, Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Ái Quốc còn có cả vài chục tên khác nhau, cho đến khi ông lấy tên cuối cùng là Hồ Chí Minh.

Có một điểm đáng chú ý: Nguyễn Sinh Cung bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng tên Nguyễn Ái Quốc và kết thúc sự nghiệp chính trị bằng tên Hồ Chí Minh. Hai tên nầy đều do Nguyễn Sinh Cung chiếm dụng của người khác.

Nguyên tại Nam Kinh (Trung Hoa), Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng Việt Nam, đã lập ra Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh. Khi đến Hồ Nam năm 1937, Hồ Học Lãm lấy bí danh là Hồ Chí Minh.(8) Năm 1938, Nguyễn Sinh Cung, lúc đó lấy bí danh là Hồ Quang, từ Liên Xô qua Trung Hoa lần thứ ba. Theo lệnh của Hồ Quang, những đảng viên cộng sản như Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp), Lý Quang Hoa (Hoàng Văn Hoan)... len lỏi vào hàng ngũ của Hồ Học Lãm. Hồ Học Lãm già yếu, ít hoạt động. Các đảng viên cộng sản liền núp dưới danh hiệu Việt Minh để hoạt động cho đảng CS, rồi dần dần chiếm dụng danh xưng nầy. Thủ lãnh Hồ Quang, cũng chiếm dụng luôn bí danh thủ lãnh Hồ Chí Minh từ năm 1942.(9)

Riêng danh xưng Hồ Chí Minh, Nguyễn Sinh Cung rất thích thú với tên nầy. Theo Trần Quốc Vượng, sử gia Hà Nội, trong bài "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)", thì ông Nguyễn Sinh Sắc, phụ thân của Hồ Chí Minh, không phải là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm, mà là con ông Hồ Sĩ Tạo. Trước khi đám cưới, bà vợ của ông Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên ông Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là người cha trên giấy tờ của ông Nguyễn Sinh Sắc mà thôi. Theo Trần Quốc Vượng, Hồ Sĩ Tạo thương đứa con rơi, mới gởi gắm Nguyễn Sinh Sắc vào học trương Quốc tử giám ở kinh đô Huế. Trần Quốc Vượng còn viết rằng: "Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm."(10)

3.- NGÀY SINH CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ HỒ CHÍ MINH

Khi đến Pháp năm 1911, Nguyễn Sinh Cung dưới tên mới là Nguyễn Tất Thành, làm đơn xin vào học trường Thuộc Địa Paris. Trong đơn, Nguyễn Tất Thành tự khai là sinh năm 1892.(Xin xem tài liệu phía dưới.) Nay trong đơn vào hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quấc tức Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung, tự khai là sinh ngày 15-2-1895. Theo tài liệu của đảng CSVN, Hồ Chí Minh tức Nguyễn Sinh Cung lúc nhỏ, sinh ngày 19-5-1890. Ngày sinh nầy được đưa ra chính thức năm 1946, khi Hồ Chí Minh mới cầm quyền chưa được một năm.

Nhìn vào ba ngày hay năm sinh do chính Nguyễn Sinh Cung, tức Nguyễn Tất Thành, rồi Nguyễn Ái Quấc, rồi Hồ Chí Minh, tự tay viết ra, rõ ràng hoàn toàn không giống nhau cả năm lẫn ngày tháng. Năm 1911, khi xin vào học trường Thuộc Địa, có thể lúc đó phải theo điều kiện tuổi tác ghi danh vào học, Nguyễn Tất Thành đề là sinh năm 1892, tức vừa trên 18 tuổi vào năm 1911. Năm 1922, khi xin vào hội Tam Điểm, không hiểu dựa vào đâu, Nguyễn Ái Quấc ghi rằng ông ta sinh năm 1895, tức 27 tuổi vào năm 1922.

Chuyện ngày 19-5, sinh nhật Hồ Chí Minh là một thủ thuật chính trị. Nguyên sau khi Nhật Bản đầu hàng ngày 14-8-1945, theo quyết định của tối hậu thư Potsdam ngày 26-7-1945, quân đội Nhật bị giải giới bởi quân Trung Hoa ở bắc vĩ tuyến 16 và bởi quân Anh ở Nam vĩ tuyến 16. Tối hậu thư nầy không nói đến ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân Nhật bị giải giới, nên Pháp liền lợi dụng kẻ hở nầy, trở lại Đông Dương.

Ở nam vĩ tuyến 16 (từ Tam Kỳ trở vào), Pháp theo quân Anh, đến Sài Gòn rồi dần dần tái chiếm miền Nam. Ở bắc vĩ tuyến 16, Pháp thương lượng với Trung Hoa, và đi đến hiệp ước Trùng Khánh ngày 28-2-1946, theo đó Trung Hoa chịu rút quân từ ngày 1 đến 15-3-1946, và chậm nhất là ngày 31-3-1946. Ngược lại, Pháp trả về cho Trung Hoa các tô giới Pháp ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Đông, Quảng Châu Loan, bán cho Trung Hoa thiết lộ Vân Nam, sửa đổi quy chế người Hoa ở Đông Dương, miễn thuế người Hoa ở Hải Phòng, và người Hoa chuyên chở hàng hóa ngang qua Bắc Việt sẽ khỏi phải chịu thuế.

Sau hiệp ước nầy, sáng sớm ngày 6-3-1946, sư đoàn 9 bộ binh Pháp đến Hải Phòng, dưới sự chỉ huy của trung tướng Jean Valluy. Túng thế, Hồ Chí Minh liền báo tin cho Pháp biết là ông ta đồng ý ký hiệp ước với Pháp. Vào buổi chiều cùng ngày, tại số 38 đường Lý Thái Tổ, Hà Nội, Hồ Chí Minh, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp kháng chiến, vội vàng ký thỏa ước Sơ bộ với Pháp. Cùng ký bản văn nầy, ngoài Hồ Chí Minh, còn có Vũ Hồng Khanh (lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng), phó chủ tịch Quân sự uỷ viên hội của chính phủ. Về phía chính phủ Pháp, đại diện là Jean Sainteny.

Trong khi đó, từ tháng 9-1945, quân đội Pháp theo quân Anh đến Đông Dương, chiếm Nam Lào, nhưng không tiến lên phía Bắc, vì vùng nầy do quân đội Trung Hoa giữ. Sau hiệp ước Trùng Khánh ngày 28-2-1946, quân Trung Hoa rời khỏi Lào ngày 12-3-1946. Pháp liền chiếm Vạn Tượng (Vientiane hay Viang Chan) ngày 23-4-1946.

Giải quyết xong việc Trung Hoa chịu rút quân khỏi Việt Nam, từ ngày 14-5-1946, đô đốc D'Argenlieu, cao uỷ Pháp tại Đông Dương, bắt đầu mở cuộc kinh lý khu vực phía bắc vĩ tuyến 16 lần đầu tiên. D'Argenlieu đến Vạn Tượng ngày 17-5-1946, và dự tính sẽ đến Hà Nội vài ngày sau.

Đô đốc D'Argenlieu là cao uỷ Pháp tại Đông Dương, nghĩa là vừa đại diện nước Pháp, vừa được xem là nhà lãnh đạo các nước Đông Dương. Việt Nam mới ký thỏa ước Sơ bộ 6-3-1946 theo đó điều 1 ghi rằng Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Hồ Chí Minh đón rước D'Argenlieu nghĩa là đón rước quốc trưởng đến thăm Hà Nội.

Việc Hồ Chí Minh ký thỏa ước Sơ bộ với Pháp, chính thức hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Pháp tại Việt Nam, hoàn toàn trái ngược với lời thề diệt Pháp của Hồ Chí Minh khi trình diện chính phủ vào ngày 2-9-1945, gây sự bất bình trong các đảng phái chính trị và trong đại đa số quần chúng. Nay lại đón rước D'Argenlieu đến Hà Nội và phải theo đúng nghi thức quốc gia, ít nhất phải có treo cờ chào mừng. Chắc chắn điều nầy càng gây thêm bất bình nơi quần chúng. Tuy nhiên, nhà cầm quyền VM vẫn ra lệnh treo cờ trong ba ngày 18, 19 và 20-5-1946. Việt Minh cho biết treo cờ không phải để chào đón đô đốc D'Argenlieu, mà để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, ngày 19-5. D'Argenlieu đến Hà Nội chiều ngày 18-5-1946. Hồ Chí Minh và D'Argenlieu gặp nhau hai lần trong hai ngày liên tiếp 19 và 20-5-1946, nhưng không đạt kết quả đáng kể.(11)

Trước sự kiện nầy, có dư luận cho rằng Hồ Chí Minh lúng túng trong việc phải treo cờ đón D'Argenlieu cho đúng nghi thức, mới có sáng kiến đặt chuyện treo cờ để mừng sinh nhật, nhắm làm cho ông ta và chính phủ của ông ta khỏi mất thể diện, đồng thời làm cho dân chúng khỏi bất bình. Dư luận nầy có phần hữu lý ở chỗ trước đó, Hồ Chí Minh không bao giờ nói đến chuyện sinh nhật của mình, nay tự nhiên bày ra chuyện mừng sinh nhật. Hơn nữa, có điểm đáng chú ý là trong đơn xin vào hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quấc ghi rằng ông ta sinh ngày 15-2-1895; nay Hồ Chí Minh lại công bố sinh nhật của ông ta là 19-5. Thế là nghĩa làm sao?

* * *

Tóm lại, ngày nay, không ai lấy làm lạ về việc Nguyễn Sinh Cung đã đổi nhiều tên, nhiều họ, nhiều năm sinh, tháng đẻ khác nhau, cho đến tên cuối cùng là Hồ Chí Minh với sinh nhật là ngày 19-5-1890. Điều đặc biệt là ngày chết của Hồ Chính Minh cũng không phải là một ngày. Người Việt Nam xem ngày chết rất quan trọng, thường tổ chức kỵ giỗ để tưởng nhớ người quá cố. Thế mà ngày chết của Hồ Chí Minh cũng được đảng Lao Động chính trị hóa, để phỉnh lừa dân chúng.

Nhiều người cho rằng vì hoạt động chính trị, Nguyễn Sinh Cung phải hành động như thế. Điều nầy chẳng có gì sai trái. Vấn đề là những hoạt động chính trị của Nguyễn Sinh Cung đã đem lại được gì cho đất nước Việt Nam?

Nguyễn Sinh Cung tức Hồ Chí Minh nói rằng ông tranh đấu để giải phóng dân tộc. Cái giá của việc giải phóng theo kiểu Hồ Chí Minh mà dân tộc Việt phải trả thật quá cao. Nếu chọn lựa đi một con đường khác, không phải là con đường cộng sản, thì có thể tốt hơn. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam ra khỏi tay thực dân Pháp thì rơi vào tay thực dân nội địa (autocolonisation) [chữ của nhà báo Pháp Jean Lacouture], tức đảng CSVN, còn ác độc hơn thực dân Pháp. Giải phóng là cởi bỏ xiềng xích thực dân chứ không phải thay đổi xiềng xích thực dân, và để tiến lên chứ không phải để đi xuống.

Hồ Chí Minh nói rằng ông ta chống Pháp để giành lại độc lập? Nước Việt Nam càng ngày càng nhượng bộ và lệ thuộc Trung Quốc. Hồ Chí Minh bảo rằng ông ta tranh đấu cho tự do dân chủ? Dân chủ của Hồ Chí Minh là dân chủ theo kiểu “đảng cử dân bầu”. Còn về tự do, sau năm 1954, khi các nhà trí thức, văn thi sĩ Bắc Việt yêu cầu trả văn học nghệ thuật lại cho văn nghệ sĩ, nghĩa là để cho văn nghệ sĩ được tự do sáng tác, thì Hồ Chí Minh và đảng Lao Động trả lời bằng cách bắt bớ, giam cầm, đày đọa cho đến cuối đời hàng lọat trí thức, văn thi sĩ, mà rõ nét nhất là vụ Nhân Văn Giai Phẩm ở Hà Nội năm 1956.

Hồ Chí Minh cải cách ruộng đất, hứa hẹn để thăng tiến đời sống nông dân? Hơn hai trăm ngàn người chết vì cải cách ruộng đất, toàn bộ đất đai của dân chúng do cha ông để lại bị quốc hữu hóa vào tay nhà nước cộng sản. Hồ Chí Minh đánh Mỹ để cứu nước? Thật ra là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc... (12)

Đó là những câu trả lời về mục đích cuộc đời chính trị của một nhân vật lịch sử thay tên đổi họ, như tắc kè thay màu da, chỉ để làm những việc hại dân, hại nước, nhất là du nhập và ứng dụng chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam.

TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto 21-6-2007)


CHÚ THÍCH

1. Tam Điểm: Các hội viên Franc-Maçonnerie khi viết thư cho nhau, thường gọi nhau là huynh đệ/anh em (frère), hay thầy (maýtre), thường viết tắt: F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm (điểm) như 3 đỉnh hình tam giác đều. Vì vậy, người ta gọi hội Franc-Maçonnerie là hội Tam Điểm. (Tập san Historia Spécial, Paris: số 48, tháng 7-8/ 1997, tr. 127.)
2. Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại 1892-1924, tập 1: 1892-1924, in lần thứ hai, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 224.
3. Hội Tam Điểm gồm nhiều “obédiences”, xin tạm dịch là “phân bộ”. Mỗi obédience gồm nhiều “loges”, xin tạm dịch là “tổ”. Ở đây, Nguyễn Ái Quấc gia nhập vào tổ (loge) Fédération universelle thuộc obédience (phân bộ) GODF. GODF là viết tắt của chữ : Grand Orient de France.
4. Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l ' Indochine au Vietnam [Hồ chí Minh, từ Đông Dương đến Việt Nam], Paris: Nxb. Gallimard, 1990, tt. 44-45.
5. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 374. Học bỗng lên tới 5,759.50 francs. Lúc đó, số tiền nầy khá lớn.
6. Lê Thanh Cảnh, tạp chí Hoài niệm Quốc Học, Huế: 1956, tr. 37-39. Ông Lê Thanh Cảnh là bạn học cùng lớp với Nguyễn Sinh Cung.
7. Hồ Tá Khanh, Thông sử công ty Liên Thành, Paris: 1983, tr. 34.
8. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, sđd. t. 168.
9. Chính Đạo, Hồ Chí Minh, tập 2, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1993, tr. 281.
10. Trần Quốc Vượng, Trong cõi, Nxb. Trăm Hoa, California, 1993, tt. 256, 258.
11. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu tập A 1939-1946, Houston, Nxb. Văn Hóa, 1996, tt. 333-334.
12. Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày (hồi ký chính trị của một người không làm chính trị), Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422, phần chú thích.

Thứ Sáu, 17 tháng 7, 2009

Phim "Sự thật về hồ chí minh"

Mặt Thật Hồ Chí Minh Từ ngày CSVN thống nhất toàn bộ đất nước VN hiện nay chúng dần dần hiện nguyên hình là một con hồ ly đầy ma mị và xảo quyệt, soán đoạt toàn bộ quyền tự quyết về chính trị hay quyền lợi dân chủ tối thượng của toàn dân tộc VN chúng ta là bộ máy chính quyền và hiến pháp VN.

Tất cả nội dung của hiến pháp và luật VN hiện tại hoàn toàn ưu tiên phục vụ cho quyền lợi ích kỷ của tập đoàn đảng trị CSVN . Tức nhiên từ cái hậu quả mất quyền dân chủ cũng đưa đến sự mất mát quyền lợi kinh tế hay quyền lợi xã hội cho quần chúng nhân dân lao động nói theo thuật ngữ đương thời trong nước là quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân bị cướp mất hoàn toàn.Trong quá trình cai trị độc đoán dựa trên cái lý thuyết xảo trá như chuyên chính vô sản và những thứ rác rưởi từ những khẩu hiệu vô sản hóa giai cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước" vân vân .

Chuyện này ai cũng gớm tởm và cho vào sọt rác lịch sử đã lâu rồi.




WESTMINSTER (NV) - Buổi chiếu ra mắt đầu tiên bộ phim “Sự Thật về Hồ Chí Minh” đã diễn ra vào lúc 11 giờ trưa Thứ Bảy, 11 Tháng Bảy tại nhà hàng Paracel, 15583 Brookhurst St., Westminster, CA 92683 với sự có mặt của hơn 500 đồng hương Việt Nam. Ðây là buổi giới thiệu đầu tiên nằm trong kế hoạch 38 buổi ra mắt và giới thiệu về bộ phim trên của Phong Trào Quốc Dân Ðòi Trả Tên Sài Gòn đối với đồng bào người Việt hải ngoại ở khắp mọi nơi. Linh Muc Nguyễn Hửu Lễ chính thức cho phép phát tán rộng rãi trên mạng. Mục đích của việc ra đời cuốn phim là nhằm “tẩy trừ huyền thoại giả trá Hồ Chí Minh để lấy lại tên gọi cho thành phố Sài Gòn.”

Phần 1 A:



Phần 1 B:

Phim "Sự thật về hồ chí minh"

Phần 2 A:



Phần 2 B:

Phim "Sự thật về hồ chí minh"

Phần 3 A:



Phần 3 B:

Phim "Sự thật về hồ chí minh"

Phần 4 A :



Phần 4 B:

Phim "Sự thật về hồ chí minh"

Phần 5 A :



Phần 5 B :

Phim "Sự thật về hồ chí minh"

Phần 6 A :



Phần 6 B :



Phần 6 C (hết)

Thứ Ba, 28 tháng 4, 2009

HỒ CHÍ MINH, CON NGƯỜI BẤT DŨNG VÀ BẤT NHÂN, BẤT TRÍ VÀ BẤT TÍN

Hoang Van

Trong khi giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam không ngừng ca tụng Hồ chí Minh, thì có rất nhiều người Việt Nam cho rằng họ Hồ là người vừa bất dũng và bất nhân, vừa bất trí và bất tín. Có phải như vậy hay không ?

Người tây phương có câu : « Xét một cái cây, người ta chỉ cần xét cái quả của nó. » Nếu quả ngon ngọt, lợi cho sức khỏe con người, thì người ta nói cái cây đó tốt ; nếu quả đó không những đắng mà còn độc hại cho sức khỏe , thì người ta nói cái cây đó xấu.

Con người là tổng số kết quả những việc làm và suy nghĩ của nó. Nếu kết quả những việc làm và suy nghĩ có lợi cho gia đình nó, có lợi cho quốc gia, dân tộc, thì người ta nói con người đó tốt ; nếu kết quả những việc làm, suy nghĩ mà có hại cho gia đình và quốc gia dân tộc, thì người ta nói con người đó xấu.

Xét kết quả những việc làm, những suy nghĩ của Hồ chí Minh, chúng ta thấy con người này là một con người xấu, tai hại không những cho gia đình, vợ con, mà còn tai hại cho quốc gia, dân tộc; vì con người này vừa bất dũng và bất nhân, vừa bất trí và bất tín.

I ) Hồ chí minh bất dũng và bất nhân

Sau hiệp định Genève 1954, Hồ chí Minh về sống ở Hà nội, có ý lấy vợ ; nhưng bị Bộ chính trị đảng Lao Động tức đảng Cộng sản Việt Nam phản đối, viện lẽ rằng vì bác là « cha già của dân tộc », « một đời hy sinh cho dân tộc », nên không thể lấy vợ. Họ Hồ đã nghĩ lấy vợ người Tàu, cho người nói với Chu ân Lai kiếm cho một người vợ Tàu. Nhưng Chu ân Lai biết nhóm Lê Duẫn, Lê đức Thọ, Trần quốc Hoàn không chịu, nên làm ngơ. Tuy nhiên nhóm người này có tìm cho « bác « một cán bộ hộ lý, người vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, nơi « bác « rất quen thuộc, ẩn náu xưa kia. Đó là cô Nông thị Xuân. Mấy năm đầu thì mọi việc êm xuôi. Cô Xuân có con với « bác « và còn đang mang dạ chửa. Người con hiện nay còn sống tên là Nguyễn tất Trung, lúc đầu do ông tướng Chu văn Tấn nuôi, sau do ông Vũ Kỳ. Thế rồi không hiểu làm sao, cô Xuân bị Bộ Chính trị vu cáo cho là làm gián điệp, phải chăng Trần quốc Hoàn, Bộ trưởng bộ Công An lúc bấy giờ, thấy cô Xuân, vợ bán chính thức của « bác « , gái một con, trông mòn con mắt, động lòng trắc ẩn, muốn ngủ với cô ta, nhưng bị từ chối, nên vu cáo.. Trước lời tố cáo của Trần quốc Hoàn, « bác « không có một tý gì là Dũng, để bênh vực cô ta, hay làm sáng tỏ vấn đề. Trần quốc Hoàn được thế, làm tới, thường lui tới hiếp cô ta, trước mặt ngay cả người em gái, tên Nông thị Vàng ; sau đó, vì hiếp chán rồi, lại sợ vụ việc bại lộ nên Trần quốc Hoàn đã cho người đập đầu chết cô Xuân, rồi vất ra một ngã tư ở ngay Hà nội, định che dấu sự thật là cô bị đụng xe. Sau đó cô em thì phải trở về Cao bằng, nhưng Trần quốc Hoàn còn sợ, sai người giết chết Nông thi Vàng, rồi ném xuống sông. Không dè cô này có một người yêu đi lính, cô đã kể hết sự việc cho người yêu mình nghe. Sau đó anh này đã viết một bức thư cho Nguyễn hữu Thọ, Chủ tịch quốc hội lúc bấy giớ. Ông này giữ kín bức thư lúc ban đầu, sau đó thì công bố. Thêm vào đó, nhà văn Vũ thư Hiên, con của ông Vũ đình Huỳnh, có thời cũng làm thư ký riêng cho « bác « , có viết quyển Đêm Giữa Ban Ngày, nói về vụ này.

Qua sự việc trên, chúng ta thấy họ Hồ vừa bất dũng, vừa bất nhân, bất dũng vì, bề ngoài thì chúng tâng bốc lên, bề trong thì chúng coi thường, coi khinh, mà « bác « ngậm căm như hến ». Họ Hồ còn bất nhân ở chỗ là bình thản thấy người mà mình muốn lấy làm vợ, có những 2 con với mình, một con đã sinh và một con đang mang dạ chửa, bị tay em mình hiếp dâm, đánh đập, rồi giết.

I I ) Hồ chí minh bất trí vì đã đi theo Đệ Tam Quốc tế Cộng sản mà chưa phân biệt nổi Đệ Nhị và Đệ Tam là gì, thêm vào đó còn tuyên bố : “ Tôi không có tư tưởng gì cả, tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ.”

Thật vậy, trong quyển sách « Những mẫu chuyện về đời họat động của Hồ chủ tịch « , nhà xuất bản Sự thật, Hà nội, 1975, tác giả là Trần dân Tiên, chính là Hồ chí Minh. Ở đây chúng ta không nói đến một con người quá vô liêm sỉ, tự lấy tên người khác, rồi tự viết sách, tự khen mình ; chúng ta chỉ nói đến một sự kiện trong quyển sách, đó là khi dự hội nghị Tours ở Pháp năm 1920, họ Hồ thú nhận nghe chữ Pháp chữ được chữ chăng, thế mà có một số trí thức và tay em Hồ cho rằng ông viết và nói thông thạo nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Pháp, đến mức độ mà ngày cả « Bản án thực dân « , viết bằng tiếng Pháp, khi họ Hồ đưa cho Ban Thư ký hội nghị Versailles họp trước đó một năm, năm 1919, cũng là của Hồ. Cũng chính trong hội nghị Tours, họ Hồ thú nhận không hiểu Đệ Nhị và Đệ Tam quốc tế Cộng sản là gì ; thế mà ông vẫn lao đầu đi theo Đệ Tam. Đó là bất trí. Trong khi đó thì cụ Phan bội Châu đã hiểu rõ nếu đi theo Đệ Tam thì có nghĩa là từ bỏ chủ quyền quốc gia, vì tổ chức này chủ trương kỷ luật sắt từ trên xuống dưới, chính như Lénine nhiều lần tuyên bố, cũng như đã được ghi rõ trong điều 16 và 17 của nội qui tổ chức này..

Họ Hồ còn bất trí ở chỗ không ý thức nổi sự nguy hiểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ trương bạo động lịch sử, đấu tranh giai cấp, một lời kêu gọi nội chiến triền miên, đưa đến cảnh con đấu bố, vợ tố chồng, bạn bè tìm cách sát hại lẫn nhau, biến xã hội thành một xã hội thú vật, cấu xé lẫn nhau.

Ngoài nội chiến, họ Hồ và con cháu còn đưa đất nước chúng ta vào cảnh ngoại chiến, biến nước Việt thành bãi chiến trường cho cuộc tranh hùng tư bản - cộng sản ; dân Việt là nạn nhân.

Người xưa có nói : « Việc binh là việc nguy hiểm ; nên dùng tạm chớ nên dùng lâu !

« Việc binh như lửa. Dùng lửa lâu ngày có hại vào thân . »

Chúng ta thấy trong lịch sử cận đại vừa qua, ba quốc gia bị chia đôi : Đức, Hàn và Việt Nam. Giới lãnh đạo Bắc Hàn và Đông Đức là những người có trí, hiểu sự tàn hại của chiến tranh, nên không gửi quân qua đánh Tây Đức và Nam Hàn. Trong khi đó Hồ chí Minh và những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam là những kẻ bất trí, không những gửi quân đánh vào miền Nam, mà còn gửi quân đánh Căm Bốt, rồi hăm he đánh cả Thái Lan vào những năm của thập niêm 80. Họ là những kẻ không nghĩ đến dân, đến nước, và còn hãnh diện đi làm tay sai ngoại bang ; như họ Hồ bất trí tuyên bố : « Tôi không có tư tưởng gì cả, tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ . » Còn Lê Duẫn thì trâng tráo nói : « Chúng tôi đánh đây là đánh cho Liên Sô và Trung Cộng. »

I I I ) Hồ chí Minh bất tín

Khi cướp được chính quyền, họ Hồ đã hứa với dân là sẽ mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân, với tiêu đề: “ Việt Nam dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc “. Suốt trong thời kỳ họ Hồ nắm chính quyền và cho tới ngày hôm nay, chúng ta thấy gì ? Việt Nam có dân chủ, tự do không ? – Không. Việt Nam có độc lập không ? – Không. Dân Việt có ấm no, hạnh phúc không ? – Không.

Việt Nam hiện nay không những không độc lập chính trị, mà còn bị lệ thuộc Trung Cộng về kinh tế và văn hóa, hàng hóa, phim ảnh Trung Cộng bày bán khắp nẻo đường Việt Nam.

Việt Nam hiện nay để theo kịp Nam dương phải mất 51 năm, theo kịp Thái lan, phải mất 95 năm, theo kịp Tân gia ba , phải mất 158 năm.

Dân Việt hạnh phúc cái gì, khi 70 đến 80% dân trong nước khi bệnh thì không có thuốc uống, hay không dám đi bác sĩ, nhất là đi nhà thương, đây là do chính Bộ Y tế Cộng sản Việt Nam thông báo. Hạnh phúc gì khi mà dân Việt phải tha hương cầu thực, phải bán thân nuôi miệng ở Căm bốt, đi làm nô lệ ở khắp mọi nơi trên thế giới.

Ông Đặng Dung, một nhà chí sĩ, có làm một bài thơ, trong đó có 2 câu: “ Thời lai đồ điếu thành công dị. Vận khứ anh hung ẩm hận đa.” Có nghĩa: Gặp thời thì những kẻ hèn mạt, chỉ đáng sách dép, bưng điếu cho người khác cũng dễ thành công. Nếu thời cơ qua, thì anh hung nhiều khi phải ôm hận. Hồ chí minh con người bất dũng, bất nhân, bất trí, bất tín, con người trên thì đội ngoại bang, gọi K. Marx và Lénine bằng cụ, trong khi đó thì gọi đức Thánh Trần bằng bác, mặc dầu đức Trần hưng Đạo sống cách Marx và Lénine cả sáu bảy trăm năm. Con người hèn mạt, bất dũng, bất nhân, bất trí, bất tín này cũng như những tay em của nó như kẻ giết người Phạm Hùng, anh hoạn heo Đỗ Mười, cai phu đồn điền Lê đức Anh, tên bất nhân Lê đức Thọ, đã trở thành quỉ. Nói như ông Lê xuân Tá, cựu Phó Trưởng ban Khoa học và Kỹ thuật Trung Ương đảng Cộng sản Việt Nam:

“ Sự ngu dốt và thấp hèn tự nó không đáng trách và không làm nên tội ác. Nhưng sự ngu dốt và thấp hèn mà được trao quyền lực và được cấy vào vi trùng ghen tỵ, thì nó trở thành quỷ nhập tràng.

“ Và con quỉ này, nó ý thức rất rõ và mau lẹ rằng cái đe dọa quyền và lợi của nó, chính là sự hiểu biết, trí thức, văn hóa và văn minh; nên nó đã đánh những thứ này một cách dã man, tàn bạo, không thương tiếc. Nhân Văn giai phẩm ở Việt Nam là vậy; Cách mạng Hồng vệ binh ở bên Tàu là thế. Nhưng những ngu dốt và thấp hèn đã trở thành sỏi thận, sỏi mật, sơ gan, cổ trướng trong lục phủ ngũ tạng của chế độ cộng sản, khiến cho chế độ này không ai đánh mà tự chết. “


Đất nước Việt, dân Việt đang bị những quỉ lãnh đạo, thì làm sao khá đuợc. Để khá đuợc, chỉ còn con đuờng duy nhất, đó là làm thế nào để bọn quỉ không còn nữa, để nhường chỗ cho những người có tài, có đức, qua những cuộc bầu cử dân chủ thực sự, chứ không phải là những cuộc bầu cử giả dối: “Đảng cử dân bầu. “

Paris ngày15/02/ 2009

Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2008

Bức thư mật liên quan đến hồ chí minh



Giọng đọc : Huyền Thoại



Bức Thư Mật liên quan đến cuộc đời của Hồ Chí Minh
(Lưu giữ tại văn phòng Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam)




Cao Bằng ngày 29 tháng 7 năm 1983.

Kính gởi Ông Nguyễn hữu Thọ Chủ tịch quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tôi là một thương binh đã 25 năm nay vô cùng đau khổ, không dám hé răng với ai. Không phải chỉ vì vết thương bom đạn, chiến tranh mà là một vết thương lòng vô cùng nhức nhối. Nay tôi sắp được từ giã cái xã hội vô cùng đen tối này đi sang thế giới khác, tôi phải chạy vạy rất khó khăn mới viết được bức thư này lên Chủ tịch, hy vọng ông còn lương tri, lương tâm đem ra ánh sáng một vụ bê bối vô cùng nghiêm trọng tàn ác, mà người vợ chưa cưới của tôi là một nạn nhân. Nay tôi hy vọng những tên hung thủ được lột mặt nạ trước công chúng, không để cho chúng ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.

Nguyên từ năm 1954 tôi có người yêu tên Nguyễn thị Vàng, 22 tuổi quê làng Hà Mạ, Xã Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Cô Vàng có người chị họ là Nguyễn thị Xuân, tên gọi trong gia đình là cô Sang tức Minh Xuân. Tôi nhập ngũ đi bộ đội cuối năm 1952. Cô Vàng và cô Xuân tình nguyện vào công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhụ. Ðược mấy tháng sau ông Trần Ðăng Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần mấy lần đến gặp cô Xuân. Ðầu năm 1955 thì đem xe tới đón về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ. Ðược mấy tháng sau thì cô Xuân cũng xin cho cô Vàng về Hà Nội, ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm với cô Xuân và cô Nguyệt con gái ông Hoàng văn Ðệ cậu ruột cô Xuân.

Ðã luôn 2 năm tôi chỉ được tiếp thư chứ không được gặp cô Vàng, người yêu của tôi. Nhưng khoảng tháng 10 năm 1957 tôi bị thương nhẹ được đưa về điều trị tại bệnh viện Huyện Hoà An. Chúng tôi vô cùng sung sướng lại được gặp nhau. Trong một tuần lể cô Vàng kể lại mọi nỗi đau xót cô đã gặp phải cho tôi nghe. Tôi xin ghi lại tỉ mỉ những lời cô Vàng tâm sự với tôi, mà không bao giờ tôi có thể lãng quên đi được. Vàng kể:

Ðầu năm 1955 cô Xuân được về gặp Bác Hồ. Bác Hồ định lấy cô Xuân làm vợ chính thức. Mấy tháng sau chị Xuân xin cho em cùng về ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, Hà Nội. Còn tầng dưới thì cho ông Nguyễn Quý Kiên, Chánh văn phòng Thủ tướng phủ ở. Vì các lãnh đạo không cho chị Xuân cùng ở với Bác trên nhà chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn,

B ộ trưởng bộ Công an trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về ở 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của Công an.

Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một cậu con traị Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Em có nhiệm vụ bế cháu. Ông Bộ trưởng Công an có nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên thường đến luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, ông Hoàn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rồi nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ, định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, lão Hoàn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to: “Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết” rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.

Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói: Ðau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Từ hôm chị mới về nhà này, có một bà già độ 60 tuổi ở một buồn dưới nhà, vợ một cán bộ Công an đã chết, lên thân mật nói chuyện với chị rằng: Sao cô ở đây một mình? Bạn đàn bà để tôi nói thật cho cô biết. Cái lão đem cô về đây là một tên côn đồ lưu manh, dâm ô tàn ác vô kể. Tôi xin kể một vài chuyện cho cô nghe. Ông Lương Khánh Thiện, một Uỷ viên Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Ðường, vợ anh Thiện đem con gái gởi bác Hoàn nhờ bác tác thành cho. Lão Hoàn đã hiếp nó, nó chửa rồi chọn một tên lưu manh vào làm Công an để gả cô Bình làm vợ. Lão lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ Công an nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu.

Nghe chuyện đó chị cũng khủng khiếp, nhưng lại nghĩ là nó đối với mọi người khác, còn đối với mình thì nó đâu dám. Nhưng chỉ được mấy hôm sau chị nghe tiếng giầy đi nhè nhẹ lên gác, chị chạy ra thì thấy nó đi lên nhếch mép cười một cách xõ lá. Nó chào chị rồi đi thẳng vào nhà, nó ôm ghì lấy chị vào lòng rồi hôn chị.

Chị xô nó ra nói:
“Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước”.
Nó cười một cách nhạo báng:
“Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh bà nằm trong tay tôi”.

Rồi nó lại nói: “Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ý. Và tôi nói cho bà biết cụ già nhà bà cũng không ngoài tay với của tôi”.

Rồi nó rút khẩu súng lục dí vào ngực chị.
Chị ngồi xụp xuống ghế nói:
“Anh cứ bắn đi”.
Nó cười khì khì :
"Tôi chưa dại gì bắn. Tôi tặng bà vật khác".
Nó dắt súng vào túi quần rồi rút ra một sợi dây dù to bằng chiếc đũa, đã thắt sẳn một cái thòng lọng. Nó quàng cái tròng vào cổ chị rồi kéo chị đi lại cái giường kia, đẩy chị nằm xuống, rồi đầu sợi giây nó buộc vào chân giường. Chị khiếp sợ run như cầy sấy.

Nó nói “Bây giờ bà muốn chết tôi cho bà chết“. Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống nó ngắm nghía ngâm nga:

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Phẩm tiên đã đến tay phàm,
thì vin cành quýt cho cam sự đời.

Rồi nó nằm đè lên hiếp chị. Chị xấu hổ lấy tay che mặt.

Nó kéo tay chị nói: “Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già mà còn vờ làm gái “.

Xong nó cởi thòng lọng cho chị, rồi nó ngồi bên chị tán tỉnh hàng giờ:
"Anh thương em lắm. Người ta gặp hạnh phúc phải biết hưởng hạnh phúc. Nếu em thuận tình thì muốn gì cũng có.
Nó đeo vào tay chị một chiếc nhẫn vàng, chị đã ném vào nhà xí.
Nó lại dặn: “Việc này phải tuyệt đối bí mật, nếu hở ra thì mất mạng cả lũ và tôi nói cho cô biết ông cụ tin tôi hơn cô" .

Rồi từ đó chị biến thành một thứ trò chơi của nó. Thấy bóng dáng nó chị như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mâỵ Nó muốn làm gì thì tuỳ ý nó. Trong mấy tháng trời chị tính quẩn lo quanh, không biết tâm sự với ai mà không làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nó. Nhớ lại lời nói của bà già, chị liền xin bác cho hai em về đây, mong tránh được mặt nó. Nhưng những hôm Công an gọi các em đi làm hộ khẩu, đi làm chứng minh thư lâu hàng buổi là nó tới hành hạ chị. Nó bảo chị phải nói cho hai em biết. Phải biết câm cái miệng nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Hôm nay nó lại đây trắng trợn như vậy vì nó tưởng chị đã dặn hai em rồi. Bây giờ việc đã xẫy ra chị thấy rất nguy hiểm.

Em nói: “Hay là chị em ta trốn đi”.
Chị Xuân nói: “Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai”.

Bác nói: “Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa”.

Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: “Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không?”.
Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu”.
Bác nói: Không nhẽ ông Bộ Trưởng Công an nói dối.

Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vu gì đó để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta.

Chị Xuân lại nói: “chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị”.
Em thấy nguy hiểm vì tên Hoàn đã nổi tiếng ở Bộ Công an là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác. Ðến độ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đị Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên Công an Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho Chị Nguyệt, ra lên xe Công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên một phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người: Công an, Tòa án, Kiểm sát viên.

Sau một tiếng, hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi thân thể không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì. Da dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nức. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Ðây là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng.

Em vô cùng đau khổ chạy về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. May lại được gặp anh kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết được vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít hôm họ tuyên bố em bị thần kinh được chuyển về điều trị tại Hoà An.

Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 cô Vàng đi về thăm ông cậu Hoàng văn Ðệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em tôi quăng xác xuống sông Bằng Giang đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng sốt chạy về cầu Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồị Nghe dư luận xôn xao bị đánh vở sọ, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Tôi đâm bổ về Hà Nội liên lạc được với một cậu bạn cùng học làm việc ở Toà án Hà Nội. Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi một bản Công Văn Viện Kiểm sát hỏi toà án về vụ em tôi và cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện việc điều trạ Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân, vợ cụ Hồ Chí Min h, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở Trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây.

Mấy chục năm nay tôi tim gan thắt ruột, nghĩ cách trả thù cho em tôi nhưng sức yếu thế cơ đành ngậm hờn chờ chết. Theo Vàng dặn lại, tôi liên hệ với một số cán bộ về hưu Công an, kiểm sát họ cho tôi biết cậu Trung ngày đó đã được đưa về cụ Bằng nuôi. Ðộ 4, 5 tuổi thì gửi cho Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969 ngày Bác Hồ mất thì giao cho ông Vũ Kỳ, nguyên Thư Ký của Bác, nay là Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ chí Minh làm con nuôi. Vũ Kỳ có 2 con đẻ là Vũ Vinh và Vũ Quang, còn Vũ Trung là con nuôi; là con chị Xuân với Bác Hồ. Tôi một thương binh sắp đi qua thế giới khác, máu hoà nước mắt viết thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gởi tới trình ông. Mong ông lưu ý xét cho mấy việc:

1- Các ông sẵn lòng bảo vệ chân lý điều tra cho ra những đứa thủ mưu, thủ ác, chứ không truy xét những người có lương tâm phát hiện lũ tàn ác.

2- Ở xã Hồng Việt bà con bạn hữu chị Xuân vào trạc tuổi 45 trở lên còn khá nhiều đều biết rõ ràng cô Vàng, cô Xuân, cô Nguyệt và chắc gia đình của cô Xuân còn khá nhiều di vật của cô Xuân. Nhưng tất cả mọi người đều khiếp sợ, không dám hé răng. Mong ông cho điều tra thận trọng, bí mật, vì việc điều tra này bị lộ thì cả lô bà con này bị thủ tiêu.

3- Cậu Nguyễn Tất Trung còn sống khoẻ mạnh nhưng việc điều tra lộ ra thì cậu cũng dễ dàng bị thủ tiêụ Tên hung thủ lái xe đón bà Xuân đi giết là Tạ Quang Chiến hiên nay là Tổng cục Phó Tổng cục Thể dục Thể thaọ Còn tên Ninh xồm thì chúng tôi không hiểu đã leo lên chức vụ nào rồi.

Từ thế giới khác kính chúc Ngài nhiều hạnh phúc.

Vợ chồng Nguyễn thị Vàng

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2008

UNESCO có vinh danh ông Hồ Chí Minh hay không?




Nguyễn An, phóng viên đài RFA
2008-05-19


Trong sách giáo khoa cũng như trên báo chí Việt Nam, một điều luôn đựơc nhắc đi nhắc lại một cách tự hào, là Tổ chức Văn Hóa, Khoa học và Giáo Dục Liên Hiệp quốc, tức UNESCO đã vinh danh ông Hồ Chí Minh là một danh nhân văn hóa thế giới nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của ông, vào năm 1990.


Photo courtesy of Wikipedia.
Nơi ở và làm việc của ông Hồ Chí Minh bên cạnh Phủ chủ tịch nước ở Hà Nội. Photo taken by Frances76.


Vì thế, trong dịp ấy, sinh nhật của ông Hồ đã được tổ chức trọng thể tại Hà nội cũng như tại trụ sở của UNESCO ở Paris.

Vào khi Internet nở rộ và khá nhiều chi tiết liên quan đến đời sống cũng như sinh họat cuả ông Hồ với những chứng cớ hiển nhiên đựơc phổ biến rộng rãi, khiến một số điều từ trứơc đến nay vốn đựơc tin tửơng tuyệt đối đã đựơc chứng minh ngược lại, giới trẻ trong ngòai nứơc cũng đặt vấn đề về chuyện vinh danh.

Đã có một số vị thẩm quyền lên tiếng trả lời, nhưng thắc mắc vẫn chưa dứt.

Để góp phần giải quyết vấn đề này, nhân dịp 19 tháng 5 năm nay, biên tập viên Nguyễn An của ban Việt ngữ đài Á Châu Tự do tổng hợp thông tin từ những nguồn đáng tin cậy, để trình bày một lần cho rõ câu chuyện.

Chúng tôi sẽ căn cứ vào bản nghị quyết của Liên Hiệp quốc hiện còn đựơc lưu trữ mà ai cũng có thể tham khảo, và phỏng vấn hai người:

Thứ nhất là nhà báo Bùi Tín, nguyên đại tá quân đội, phó tổng biên tập báo Nhân Dân. Ông từng có mặt tham dự lễ kỷ niệm năm 1990 tại Hà nội và cũng từng đến tận trụ sở UNESCO ở Paris để hỏi chuyện.

Thứ hai là tiến sĩ Nguyễn Văn Trần, người lãnh đạo nhóm phản đối nghị quyết của Liên Hiệp quốc và đấu tranh để hủy bỏ, hay ít nhất vô hiệu hóa nghị quyết ấy. Chúng tôi cũng mong nhận đựơc thêm ý kiến của quý thính giả về chuyện này.

Thông lệ của UNESCO

Câu chuyện bắt đầu với ngày sinh của ông Hồ và thông lệ của UNESCO, là tưởng niệm ngày sinh thứ 100, hay chia chẵn cho 100, của những nhân vật kiệt xuất của các nứơc thành viên, theo đề nghị từ các nứơc ấy, nên trứơc hết, thiết tưởng phải nói về ngày sinh của ông Hồ, mặc dù ai cũng nói rằng ông sinh ngày 19 tháng năm năm 1890. Nhà báo Bùi Tín nói:

“Tôi theo dõi vấn đề này đến 15 năm nay và hiện nay tôi cũng vẫn chưa xác định được ngày sinh đúng của ông Hồ là ngày nào, bởi vì ổng khai đều là chính thức cả đến 5 chỗ, mà 5 chỗ đó là 5 ngày sinh khác nhau. Và ngày sinh gốc thì ngay sổ sinh ở quê ổng là làng Kim Liên cũng là khác, theo ngày âm lịch mà chuyển sang (dương lịch) cũng không phải là Ngày 19-5-1890.

Thế rồi ngày mà ổng sang Moscow đáng lẽ phải khai đúng với Quốc Tế Cộng Sản III (Đệ Tam Quốc Tế) cũng lại khai khác đi là Tháng 4 chứ không phải là Tháng 5.

Thế rồi đến ngày khi ở Pháp khi ổng trả lời phỏng vấn trên tờ Le Paria với tờ L'Humanité cũng lại khác nữa. Cho đến nay thì tôi nghĩ là không ai có thể chứng minh được ngày sinh chính thức của ông Hồ là ngày nào, nhưng chỉ biết đích xác Ngày 19 Tháng 5 là một ngày giả.”


Như vậy là 100 năm ngày sinh của ông Hồ chưa chắc đã là 19 tháng 5 năm 1990, như bức thư của ông Võ Đông Giang, bộ trưởng, chủ tịch Ủy ban quốc gia UNESCO của Việt Nam viết gửi tổng giám đốc UNESCO, ông Amadou Mahtar M’Bow ngày 14 tháng tư năm 1987.

Phóng ảnh bức thư cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt đựơc đính kèm bài này để tham khảo, nhưng sau đây là phần chính:

“Nhân dân Việt Nam sẽ tổ chức trọng thể kỉ niệm lần thứ100 ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/1990).

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc, đồng thời là nhà văn hóa xuất sắc của Việt Nam. Do vai trò và cống hiến vô cùng to lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, và sự gắn bó cuộc đời họat động của người với sự nghiệp đấu tranh chung của các dân tộc trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; do những đóng góp to lớn của người vào việc gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa Việt Nam, chúng tôi nghĩ rằng kỉ niệm lần thứ 100 ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với dân tộc Việt Nam, mà còn có ý nghĩa quốc tế lớn lao.”


Những vận động của Hà Nội

Sau khi đề nghị Đại hội đồng khóa 24 của UNESCO thông qua nghị quyết kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của ông Hồ, và ghi tên ông Hồ vào danh sách danh nhân thế giới sẽ đựơc tổ chức kỷ niệm vào năm 1990.

Đề nghị ấy đựơc đại hội đồng khóa 24 của UNESCO chấp thuận và phần bịên minh của ông Võ Đông Giang được ghi nguyên văn trong bản nghị quyết. Văn bản này đựơc ghi lại trong hồ sơ lưu trữ của đại hội đồng khóa họp thứ 24 tại Paris từ 20 tháng 10 đến 20 tháng 11 năm 1987, ở trang 134, mục 18.65, và phóng ảnh đựơc đính kèm. Đường link dẫn tới hồ sơ này đựơc chép lại ở cuối bài để quý thính giả tiện tham khảo.

Phần cuối bản nghị quyết đề nghị tổng giám đốc UNESCO có các bứơc đi thích hợp để kỷ niệm ngày sinh thứ 100 của chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời hỗ trợ các họat động kỷ niệm đựơc tổ chức nhân dịp này, nhất là với những họat động ở Việt Nam.

Như vậy, nghị quyết vinh danh ông Hồ Chí Minh của UNESCO là có thật, theo đề nghị của phái đòan Việt Nam và dựa trên những điều phái đòan Việt Nam đưa ra để biện minh. Cùng với ông Hồ, còn có một số nhân vật khác, trong đó ở Á Châu, có ông Nehru của Ấn độ.

Vấn đề thứ hai là UNESCO, nhất là ông tổng giám đốc đã thực hiện nghị quyết ấy thế nào, vì từ khi có nghị quyết đến khi dự trù thực hiện, còn gần ba năm nữa.

Cộng đồng người Việt phản đối

Tiến sĩ Nguyễn Văn Trần kể lại: Khi chúng tôi ở Paris hay tin được có cái quyết định vừa được ban hành thì anh em chúng tôi ở Paris lập tức họp lại với nhau và thảo luận cái phương pháp nào, tìm cách chống lại nghị quyết của UNESCO.

Ông Trần nói lý do khiến cộng đồng người Việt phản đối nghị quyết của UNESCO là:

Tiến sĩ Nguyễn Văn Trần : “Thì với 2 tư cách : Hồ Chí Minh là một nhà văn hoá, Hồ CHí Minh là một người giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân Pháp, thì chúng tôi vận động dư luận Việt Nam phản đối cả hai điểm đó.

Điểm thứ nhứt, Hồ CHí Minh không phải là nhà văn hoá : Căn cứ vào trình độ học vấn của Hồ Chí Minh thì tất cả tài liệu chúng tôi có đưa ra là Hồ Chí Minh chỉ học qua Lớp 3, không thể là nhà văn hoá được.

Và tác phẩm Ngục Trung Nhật Ký mà nhà cầm quyền Việt Nam đưa ra cho đó là tác phẩm của Hồ Chí Minh thì được Giáo sư Lê Hữu Mục chứng minh rằng tác phẩm đó không phải là một tác phẩm thật của Hồ CHí Minh.

Vấn đề văn hoá thì chứng mình rõ ràng rồi, tất cả ai cũng thấy, mấy người khác cũng nhìn nhận chuyện đó. Bây giờ chứng minh ông Hồ không phải là nhà giải phóng thì họ cũng nhìn nhận bởi vì Hồ Chí MInh có công đánh đuổi thực dân Pháp nhưng mà để thiết lập một chế độ cộng sản chứ không phải là một chế độ thật sự như người Việt Nam mong muốn. Điều đó họ thấy rõ.

Chúng tôi họp đồng bào ở vùng Paris và tổ chức một uỷ ban để phản đối UNESCO về việc chấp thuận làm lễ cho Hồ Chí Minh ở Paris, tại trụ sở UNESCO. Uỷ Ban đó chúng tôi chọn cái tên là Uỷ Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh. Anh em bầu tôi làm tổng thư ký.”

Ông Nguyễn Văn Trần cũng cho biết là chủ trương của cộng đồng người Việt hải ngọai và họat động của ủy ban đựơc sự ủng hộ mạnh mẽ của Hội Cựu Chiến Binh Pháp và Quốc Hội cũng như Chính Phủ Pháp, vì một số cựu chiến binh khi đó đã tham chính hay trở thành đại biểu dân cử, và họ biết rất rõ về Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh:

Tiến sĩ Nguyễn Văn Trần : “Và chúng tôi liên lạc được với Hội Cựu Chiến Binh và Hội Những Người Bạn Đông Dương (ANAI) do Tướng Simon làm Hội Trưởng. Ông giới thiệu những người trong quân đội Pháp, những công chức ở đây mà bây giờ họ là dân biểu và thượng nghị sĩ. Chúng tôi viết thư với tư cách là Uỷ Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh, chúng tôi viết thư cho những vị đó. Tất cả thư từ đều được trả lời rất là thuận lợi, tức là những vị dân cử lúc nào cũng yểm trợ lý do tranh đấu của chúng tôi.”

Quyết định của UNESCO

Đến Tháng 5 Năm 1990, thì tình hình đã rõ, có nghĩa là UNESCO quyết định không thực hiện nghị quyết mặc dù họ không thể công khai hủy bỏ nghị quyết ấy, vì chưa đến kỳ họp đại hội đồng. Cơ duyên đưa đến kết quả này đựơc ông Trần kể lại:

Tiến sĩ Nguyễn Văn Trần : “Đến Năm 1990 thì biến cố Đông Âu đã làm cho tất cả những người có thiện cảm với Hồ Chí Minh, người Pháp có thiện cảm với Hồ Chí Minh thì đều thay đổi hết. Có cái cơ may nữa là ông Tống Giám Đốc M'Bow (người Phi Châu da đen) hết nhiệm kỳ và không được bầu lại, và ông Frederico Meillor (người Tây Ban Nha) được bầu làm tân Tổng Giám Đốc UNESCO. Ông Meillor là người không có cảm tình với cộng sản như ông M'Bow nên đó là một thuận lợ cho chúng tôi. Và yếu tố mà tôi nghĩ là có tính quyết định, đó là chúng tôi chứng minh được Ngày 19 Tháng 5 không chắc là cái ngày sanh thiệt của Hồ Chí Minh, và một tổ chức văn hoá - khoa học thì không thể chấp nhận một điều không chính xác.

Sau đó UNESCO mời chúng tôi lại để trả lời. Giám Đốc Đông Nam Á Sự Vụ lúc đó là một người Lào đã trả lời chúng tôi rằng "Chúng tôi không có quyền huỷ bỏ cái nghị quyết. Chúng tôi chỉ làm được một việc là không thi hành cái nghị quyết đó. Và chúng tôi thông báo cho ông biết rằng Thị Xã Paris không tham dự, Chính Phủ Pháp không tham dự, UNESCO không tham dự, và UNESCO không tổ chức cái lễ đó tại trụ sở UNESCO và cũng không thi hành cái nghị quyết là sẽ trợ cấp một khoản cho Hà Nội tổ chức tại Hà Nội". Và họ thông báo thêm rằng Toà Đại Sứ Việt Nam ở Paris thuê 2 phòng ở trong trụ sở UNESCO để tổ chức. Lúc đó chúng tôi phản đối nên họ rút lại chỉ còn 1 phòng thôi."

Nhà báo Bùi Tín lúc đó đang có mặt ở Hà Nội, và có tham dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh ông Hồ. Đựơc hỏi về sự tham gia và hỗ trợ của UNESCO đối với họat động ấy, như đựơc ghi trong nghị quyết vinh danh, ông nói: “Vâng. Tôi tham dự cái buổi lễ đó vào buổi sáng Ngày 19-5-1990. Tuyệt nhiên không có một đại diện nào của UNESCO tham dự ở đấy cả. UNESCO không có một đại biểu nào đến dự cả.”

Nhà báo Bùi Tín sau đó đã đến trụ sở của UNESCO ở Paris để tìm hiểu thêm và cho biết:

“Tôi đã đến tận UNESCO để tìm và tôi đã gặp bà Elisabeth là người phụ trách thư viện của UNESCO lớn lắm và bà nắm tất cả hồ sơ chính thức của UNESCO, và bà ấy cũng biết ngay và trả lời tôi trong khoảng 40 phút về nội dung của vấn đề này. Bà xác định rõ là lúc đầu có một nghị quyết có thật của UNESCO nhưng mà nghị quyết đó là thông qua cái đề nghị viết sẵn của đoàn Việt Nam.

Thế nhưng trước ngày kỷ niệm hoặc một năm thì cả một phong trào chống đối rất là mạnh mẽ, do đó mà UNESCO chủ trương là không đứng ra để tổ chức cái đó nữa và để cho Việt Nam muốn tổ chức như thế nào thì tuỳ nhưng mà không được lấy danh nghĩa UNESCO. Lúc bấy giờ ông Tổng Thư Ký UNESCO nói rằng nếu muốn xoá bỏ nghị quyết đó thì phải có Đại Hội Đồng UNESCO, mà Đại Hội Đồng UNESCO thì 5 năm mới họp một lần, do đó phải 3 năm nữa mới có thể trình vấn đề đó được.

Cho nên chủ trương của chúng tôi là như thế này, tức là không cung cấp tài liệu và tài chính cho cái kỷ niệm này và cũng không tham dự chính thức cái tổ chức này ở bất cứ đâu, và ngay ở Pháp là trụ sở của UNESCO cũng sẽ không tổ chức gì hết. Nếu phía Việt Nam muốn thì phải thuê một cái phòng nhỏ của UNESCO và cũng không được niêm yết một tài liệu nào nói rõ là UNESCO chủ trương tổ chức lễ kỷ niệm này để coi ông Hồ là danh nhân văn hoá thế giới.


Đó cũng chính là điều mà ông Trần phát biểu và đó cũng chính là điều đựơc ghi lại trong bài báo về lể kỷ niệm này của tác giả Văn Chấn trong báo An Ninh Thế Giới, số 177 ra ngày 18/5/2000, trang 34, nguyên văn như sau:

"Về phần nội dung buổi lễ, ta có thay đổi chút ít. Đồng chí đại sứ của ta không đọc bài diễn văn dài về Bác, mà thay vào đó là đồng chí Nguyễn Kinh Tài, đại sứ bên cạnh UNESCO, đọc diễn văn ngắn nói về ý nghĩa lễ kỷ niệm, đọc quyết định của đại hội đồng UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Bác. Chủ tịch Hội đồng người Việt tại Pháp phát biểu ý kiến về công lao của Bác Hồ đối với dân tộc và thế giới; cuối cùng là chương trình xem văn nghệ do đòan cải lương trong nứơc sang phục vụ."

Trên đây là những thông tin do Nguyễn An tổng hợp liên quan đến việc UNESCO vinh danh ông Hồ Chí Minh là danh nhân thế giới. Chúng tôi mong nhận đựơc thêm ý kiến của quý thính giả về chuyện này. Xin cảm ơn quý vị.

Thông tin liên quan:
Nghị quyết của UNESCO về trường hợp ông Hồ Chí Minh: