Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2008

Sự Tích Con Yêu Râu Xanh - Bài 6





Nhờ hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, Hồ và bầu đoàn nhếch nhác kéo nhau vào Hà-nội. Hồ chiếm cho mình cái phủ toàn quyền Đông-dương (sau đổi thành biệt điện của quốc trưởng Bảo Đại) và đặt tên lại là “phủ chủ tịch”. Mỗi đầu lãnh mafia chọn cho mình một tòa vi-la thật khang trang, hệt như sau tháng 4/1975, bọn chúng xâm lược trọn vẹn miền Nam và vào Sài-gòn vậy. Cũng ăn cướp đủ thứ từ nhà cửa, xe cộ và cả người, nghĩa là công khai lấy vợ nhỏ, cặp bồ bịch v.v…

Trong những năm tháng nhố nhăng kiểu “nước lụt chó nhẩy bàn độc” như thế, Xuân Thủy đã chiếm một tòa vi-la to đẹp ở đường Lý Thường Kiệt (Hà-nội), liền với trường Nguyễn Trãi (trước 1945 là trường nữ học nổi tiếng, mang tên Đồng Khánh). Bà vợ già của Thủy, lấy nhau từ lúc chàng thì “thái dao cầu, vê thuốc tễ”, còn nàng thì “thuyền tán” lanh canh những lúc lừa được vài con bệnh. Hai vợ chồng Thủy là hai thái cực. Bà vợ chất phác, quê mùa, nhẫn nhục, vẫn áo nâu sồng, quần trúc bâu đen, yếm vải, răng đen, ăn trầu thuốc dù lúc ấy Thủy đã được Hồ cho cái tước “bá” tức ủy viên ban bí thư đỏ, nghĩa là “bá tước” Xuân Thủy! Còn Thủy thì nhanh chóng bỏ áo the, khăn đóng, không bộ “đại cán ba Tàu cộng” bằng dạ tím than thì cũng bộ “com-lê” Tây hợp thời trang, sơ-mi trắng cổ cồn, cà-vạt đỏ, kính đổi màu khi thì gọng vàng, khi thì gọng đồi mồi. Thủy khôn ngoan hơn, không “đá đít vợ già” đi như kiểu Trần xuân Bách, Nguyễn đức Lạc, Cù huy Cận v.v…, mà chỉ “biếm” bà vợ già, quê mùa đó vào “lãnh cung” kiểu Lê Duẩn, Trần huy Liệu (tức dãy nhà ngang, thời thực dân, chủ Tây dành cho bồi hay “con sen”). Còn Thủy ở nhà chính, ngày ngày tiếp các cháu gái tươi mát trên nhà khách kín đáo, có bảo vệ canh gác, đến ruồi, muỗi cũng không vào lọt. Cuộc “cách mạng vô sản” của Hồ đã đổi lốt cho Thủy đến mức chỉ vài năm sau, một bà lão cùng quê Đa-phúc với Thủy, có dịp ra Hà-nội lại thăm bà vợ già của Thủy, thấy Thủy từ xe hơi Volga màu đen, có cần vụ (tức đầy tớ) mở cửa xe cho ra, đã phải thốt lên: “úi trời! Thầy lang giờ béo, đẹp và sang trọng còn hơn công sứ Pháp ở Vĩnh-yên xưa kia nhiều lắm! Thực là ơn “cụ” (tức Hồ) và ơn “cách mạng””. Thủy mặt tỉnh khô, hơi gật đầu rồi bệ vệ lên nhà trên, theo sau là thư ký và cần vụ đang cắn chặt răng không dám cười (hai nhân chứng sống).

Bà vợ già của Xuân Thủy hay đến tòa soạn báo Cứu-quốc (đầu phố Bà Triệu, Hà-nội) kể nhiều chuyện với anh em phóng viên, rất thân mật, cởi mở. Còn Xuân Thủy chỉ lo tiếp các “cháu” ở phòng khách nhà riêng. Trong số quan hệ bất chính với Xuân Thủy, có hai nhân vật được Xuân Thủy lôi vọt lên như diều. Một là Nguyễn thị Bình, giữ chức vụ phó vụ lễ tân thuộc bộ ngoại giao của mafia cộng sản ở miền Bắc khi ấy. Vì Xuân Thủy được Hồ giao nhiệm vụ qua hội nghị Paris về Việt Nam, nhưng lúc đó người cầm đầu đoàn của cái gọi là “chính phủ cộng hòa miền Nam Việt Nam” là Trần bửu Kiếm, một đực rựa. Trong khi Xuân Thủy không thể thiếu “phụ nữ” để “mật đàm” được, nên Thủy đề nghị Hồ cho Nguyễn thị Bình sang thay chỗ Trần bửu Kiếm. Lý do có vẻ đứng đắn là “Bình” có nghĩa là “hòa bình”, nhất là Nguyễn thị Bình lại mặc chiếc áo dài màu xanh “hòa bình” (tức xanh da trời) thì rất thuận tiện cho việc đề cao quan điểm yêu hòa bình của “chính phủ cộng hòa miền Nam Việt Nam”!(?) Tất nhiên trò vặt đó của Thủy làm sao qua được mặt Hồ, nhưng cả hai đều hiểu ngầm, nên Hồ cho Thị Bình đi theo Xuân Thủy qua Paris, cũng là phòng xa lỡ anh chàng Trư-bát-giới Xuân Thủy này thiếu đàn bà lại ngã vào mỹ nhân kế của Kissinger hoặc “phản động” nào đó thì thật là “xôi hỏng, bỏng không”. Báo chí Pháp thời đó cũng đoán ra qua vẻ hơn hớn của Thủy và cái e lệ kiểu bà phó Đoan của Bình (bà phó Đoan là nhân vật của nhà văn Vũ trọng Phụng trong tác phẩm Số Đỏ) thường đưa nhau đi tắm hơi. Còn báo Nhân dân của mafia cộng sản ở Hà-nội thì đăng thơ “ỡm ờ” của Thủy o bế Thị Bình công khai. ở đây xin mở một dấu ngoặc là những chính khách “quốc tế” khi cần giả điếc, giả mù cũng giống như thật. Làm sao mà họ chẳng biết Thị Bình từ bộ ngoại giao mafia cộng sản Hà-nội cưỡi máy bay sang Paris ngồi vào chỗ của Trần bửu Kiếm, vậy mà cũng coi cái hình nộm “chính phủ Mặt trận giải phóng” đó mà Lữ Phương từng tự hào như một thực thể độc lập”(?)

Người thứ hai là Nguyễn thị Hằng, hiện nay (2001) đang là ủy viên trung ương của mafia cộng sản và giữ ghế bộ trưởng lao động và xã hội. Hồi máy bay Mỹ đánh cầu Hàm Rồng ở Thanh-hóa, Thị Hằng đang là xã viên hợp tác xã dệt chiếu cói ở thị xã Thanh-hóa, nên tất nhiên cũng trong biên chế dân quân tự vệ của thị xã. Một cô dân quân khác là Nguyễn thị Tuyển, béo và lùn, chẳng biết hư thực ra sao, được đơn vị pháo binh ngụy quân ở cầu Hàm Rồng tuyên dương vì đã giúp đơn vị lính cao xạ đó khiêng đạn, mà một mình vác được những thùng đạn nặng hàng tạ. Có mấy phóng viên báo từ Hà-nội, vào tìm hiểu thành tích của “dân quân” thị xã Thanh-hóa trong trận cầu Hàm Rồng đó, có đề nghị Nguyễn thị Tuyển làm thử lại, nhưng Tuyển vác không thể quá 50 kí-lô. Tuy nhiên, Tuyển vẫn được báo chí ca ngợi dựa vào xác minh của ngụy quân đóng ở cầu Hàm Rồng, và tuyển được tuyên dương công trạng là “anh hùng”. Lần đó, Thị Hằng “may mắn” bị mảnh đạn làm bị thương nhẹ. Nhưng vì Thị Hằng lai Pháp, cao đẹp như người mẫu vậy, nên Hằng được phóng viên ảnh của báo Tiền Phong (báo của giới trẻ) là Mai Nam chụp ảnh và cũng tuyên dương vì có “thành tích chiến đấu và bị thương ở vùng thuộc loại hấp dẫn trên cơ thể phụ nữ” (tất nhiên Hằng cho phóng viên xem vết thương của mình làm bằng chứng). Xuân Thủy ngó thấy hình của Thị Hằng, bỗng tiếng “sét ái tình” làm con lợn lòng của Thủy kêu lên eng éc. Và, Thủy, nhân danh bí thư trung ương mafia cộng sản kiêm phó chủ tịch đồng thời là tổng thư ký ủy ban thường vụ quốc hội của mafia cộng sản, gọi điện thoại cho ban thi đua trung ương, cứ duyệt đại cho Thị Hằng là “chiến sỹ thi đua toàn quốc”, vì theo Thủy, như thế sẽ thuyết phục chị em thi đua chết cho sự nghiệp của “bác” (tức Hồ) và của “đảng” (tức tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản). Thế là cô bé lai Tây, Nguyễn thị Hằng, được Xuân Thủy lôi ra khỏi ẩn số. Chẳng cần qua bầu bán (dù chiếu lệ), Thị Hằng được “bổ sung” vào ban chấp hành trung ương của đoàn thanh niên mafia. Rồi còn được đưa vào quốc hội cũng chẳng cần bầu bán làm đại biểu và còn là thành viên của ban đối ngoại của quốc hội mafia. Thị Hằng thường xuyên đến để “đền ơn đáp nghĩa” Xuân Thủy và cũng là để được Xuân Thủy “huấn luyện” thành “con người mới xã hội chủ nghĩa”! Trong vụ Thị Hằng, Xuân Thủy đã biết kết hợp chặt chẽ giữa “công và tư”, giữa “chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân”, giữa quyền lợi của “bác” và “đảng” và của riêng Xuân Thủy thật là tài tình. Chính nhờ cái “tài” này mà khi hội nghị Paris về Việt Nam, Hồ đã đích thân chỉ định Xuân Thủy làm trưởng phái đoàn hòa đàm của mafia cộng sản phía Bắc Việt Nam. Đương nhiên hắn cũng là “boss” thực thụ của con rối “mặt trận giải phóng”, vì ngoài Thị Bình ra, Thủy từng là tổng biên tập của báo Cứu quốc, đã lôi Nguyễn thành Lê, một đàn em của hắn từ lò báo Cứu quốc, trước khi về báo Nhân dân, làm người phát ngôn cho hắn; và lôi Hoàng phong cũng từ báo Cứu quốc, có biệt danh là típ-phờ-nờ (nhân vật trong Số Đỏ của Vũ trọng Phụng, viết tắt của “tôi yêu phụ nữ”) làm “thư ký” cho Thị Bình để tiện canh chừng bậy bạ. Nghĩa là Hoàng Phong từ tòa soạn báo Cứu quốc ở đầu phố Bà Triệu, Hà-nội, cưỡi máy bay qua Paris và úm-ba-la biến thành người của cái gọi là “mặt trận giải phóng”, là tổ chức của “nhân dân miền Nam Việt Nam tự vùng lên chống Mỹ-Ngụy”!!! Thế mà chú Sam có cơ quan tình báo thuộc loại “số rách” trên thế giới, cố tình giả vờ “mù”.

Thấy Thị Hằng cao, đẹp, sung sức gái quê lao động, Thủy giới thiệu cho Thị Hằng tham gia vào đoàn đi xin Nga-xô súng đạn về giết nhân dân miền Nam Việt Nam và “phản động” ở Bắc Việt Nam. Và quả là Thủy có đôi mắt và cái đầu của Mã giám Sinh (nhân vật trong Kiều của cụ Nguyễn Du) và cũng đi bài bản “nước vỏ lựu, máu mào gà” khiến Thị Hằng làm cho một phó đô đốc Nga-xô mê như điếu đổ. Cuộc xin Nga-xô súng đạn thành công quá sức tưởng tượng. Từ đó, mỗi lần đi xin Nga-xô súng đạn, Thị Hằng được đi trước và về sau cả đoàn. Để làm gì xin bạn đọc tự hiểu. Có điều nhờ anh chàng phó đô đốc Nga-xô đó vì quá mê Thị Hằng nên anh ta còn gợi ý và đưa đoàn hải quân dưới trướng anh ta sang cảng Hải-phòng để đá bóng hữu nghị. Hồ và bè lũ sung sướng vì đó là “cú dằn mặt Mỹ” vào lúc Mỹ đánh bom Hải-phòng và phong tỏa hải phận phía Bắc Việt Nam.

Thời kỳ ở Paris, Xuân Thủy làm quen được với gia đình một Việt kiều ở Pháp, có con gái là Thu Thủy, một học sinh xuất sắc, Thủy xin nhận cô đó làm “cháu nuôi” và mời về Hà-nội thăm quê hương. Báo chí cộng sản tuyên truyền rùm beng cứ như cô học sinh đó giỏi là nhờ được “tư tưởng của “bác” soi dọi”(?) và Thủy lại định múa võ Trư-bát-giới bằng bài thơ có những câu ướt át còn hơn thơ Xuân Diệu hồi “tiền chiến”, đăng ngay trên báo Nhân dân:

“Bác là Xuân Thủy xanh tươi, (!!!)
Cháu là Thu thủy sáng ngời nước non”(!!!)


Cũng may cô học sinh đó không rơi vào bẫy của Mã giám Sinh mafia cộng sản là me-xừ Xuân Thủy!

Hoàng quốc Việt (tên thật là Hạ bá Cang), quê ở phủ Từ-sơn Bắc-ninh, có học qua trường công nhân bách nghệ ở Hà-nội. Trước 1945, Việt là thường vụ trung ương mafia cộng sản Việt Nam. Theo hồi ký của Việt, thì để có thể liên lạc được với giai cấp công nhân ở chính quốc (tức Pháp), Việt phải vào Sài-gòn, lợi dụng thực dân Pháp đặt miền Nam Việt Nam là xứ thuộc địa, nên Việt dùng thẻ thuế thân lậu (tức giả) xuống tàu thủy “tự do” đi qua Pháp. Xin bạn đọc lưu ý, là chính Việt tự viết ra điều đó khiến người đọc nhận xét được rằng thời thuộc địa, người Việt Nam còn được tự do đi lại, tự do xuất dương, trong khi tụi mafia cộng sản cai trị thì đó chỉ là bánh vẽ trong hiến pháp của chúng mà thôi, người dân từ tỉnh này qua tỉnh kia cũng phải xin giấy “thông hành” để đi và còn phải trình giấy “thông hành” chậm nhất là 11 giờ đêm cho công an hộ khẩu nơi đến ngay trong ngày đến, với dấu chứng nhận đến và đi để về nộp lại cho công an địa phương. Đó là tự do của Hồ và bè lũ mafia của hắn áp đặt cho người dân Bắc Việt Nam!

Năm 1951, tụi mafia cộng sản họp đại hội 2 và Hoàng quốc Việt chiếm được cái ghế ủy viên dự khuyết bộ chính trị, phụ trách ban dân vận kiêm chủ tịch công đoàn. Sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, Việt cho chiếm toàn bộ tòa nhà đồ sộ của công ty hỏa xa Vân-nam cũ của thực dân Pháp, trên đường Trần Hưng Đạo, Hà-nội, làm trụ sở của tổng công đoàn. Tuy người nhỏ thó, chân hơi cà nhắc, lại thêm từ giọng nói, điệu bộ cho đến mặt mũi nữa, râu ria, hoàn toàn là điển hình của khuôn mẫu “lý dịch cường hào ở nông thôn miền Bắc Việt Nam”, nhưng Việt lại là một trong những trùm, mafia ưa làm dỏm kiểu Xuân Thủy. Và, dù Việt có bà vợ là em gái của Tô Hiệu, thuộc loại “hoạn thư” của cụ Nguyễn Du, ấy thế mà hắn cũng o bế được một cô bồ nhí, có nguồn gốc khá giả của người Hà-nội và hắn “nhờ” Mã giám Sinh Xuân Thủy bố trí cho cô ta làm việc ở toà soạn báo Cứu quốc. Cả tòa soạn báo Cứu quốc, từ Nguyễn Tiêu là quyền tổng biên tập, đến An Châu là bí thư đảng ủy và mụ cháu của Trường Chinh, có chồng là Nguyễn ngọc Kha, chánh văn phòng mặt trận tổ quốc, là Đặng thị Trâm, giữ chức thư ký công đoàn đều giả mù, giả điếc. Đúng là “mèo mù vớ cá rán”. Cô bồ của Việt là dân Hà-nội thứ thiệt, vừa đẹp, vừa hiền dịu, vừa khéo, vừa giỏi nhưng đã bị cái cơ chế mafia của họ Hồ “đánh vảy, moi ruột và rán vàng như cá rán” nên chẳng thể nào trách được vì sao lại để con mèo mù như Hoàng quốc Việt vầy vò! Bởi Việt không chỉ trùm loại mafia bự mà còn giữ các ghế: chủ tịch tổng công đoàn, ủy viên đoàn chủ tịch mặt trận tổ quốc, viện trưởng viện kiểm sát tối cao, ủy viên hội đồng quốc phòng nhà nước; bí thư đảng đoàn luôn cả viện kiểm sát tối cao, tòa án tối cao và hội luật gia! Đến như luật sư Phạm thành Vinh, một luật sư có tài, là con rể của thạc sỹ luật Hồ đắc Điềm (cựu tổng đốc Hà-đông), cháu rể giáo sư thạc sỹ, giám đốc trường đại học y khoa Hồ đắc Dzi, chỉ vì dám “phê bình nhè nhẹ” vợ Việt trong sinh hoạt ở hội luật gia mà Việt ém cho mở mắt không nổi, sống trong cảnh như “xác ướp” vậy.

Chính Hữu Thọ, từng là ủy viên trung ương mafia, phụ trách trưởng ban tư tưởng trước Nguyễn khoa Điềm, có kể rằng: Hồi diễn ra cái gọi là đại hội 2 mafia ở Việt-Bắc (1951), Hữu Thọ được giao vẽ ký họa về đại hội. Khi Hữu Thọ vẽ Hoàng quốc Việt, hai lần hắn đòi xem tranh phác thảo và giận dữ chê “không giống”. Hữu Thọ sợ quá, chưa biết làm sao thì Hoàng Tùng (tổng biên tập báo Nhân dân, “boss” của Hữu Thọ) ghé tai nói: “Cứ vẽ thật đẹp, không cần giống hắn là xong ngay”. Và, quả đúng như vậy! Ngộ thật!!!

Giữ những chức vụ quan trọng của cả lập pháp, hành pháp và tư pháp (vì Việt còn là đại biểu và trong ban thường vụ quốc hội) thế mà Việt đích thân đi ô-tô vào nhà giam Hỏa-lò (Hà-nội) để đánh tháo cho hai tên sát nhân, là con trai Đinh thị Cẩn vì y thị là bồ của Hồ chí Minh và nghe nói là hai đứa đó cũng là con của Hồ. Cũng như Việt nhận một bồ khác của họ Hồ là Trương thị Mỹ, nguyên hầu phòng của Hồ về làm phó chủ tịch tổng công đoàn. Một con người đủ thứ bê bối như Việt vậy mà bồi bút Nguyễn đình Thi ra công tô son, trất phấn thành nhân vật “Tự” trong tác phẩm Vỡ Bờ, cứ y như là “nhà cách mạng tài, đức song toàn”. Đúng là “có tham quan thì phải có tiểu nhân”; có bạo chúa thì phải có gian thần”, vì chúng cộng sinh!!!

Đấy là chỉ kể sơ qua mà thôi. Một số những đứa khác tôi đã có điểm mặt bọn chúng trong cuốn “Truyện thâm cung dưới triều đại Hồ chí Minh”. Nay xin lưu ý về vài đứa khác đã đi theo đúng con đường của Hồ để xem “về mặt đạo đức cá nhân”, có quan trọng không, vì chúng giữ những chức vụ lớn, hay “chẳng có gì quan trọng lắm” như Lữ Phương nhận xét ngay cả đối với họ Hồ.

* “Nguyễn Khang, kẻ được coi là “công đầu” trong cái gọi là “cách mạng tháng tám” ở Hà-nội, là một trong 37 ủy viên trung ương mafia chính thức, được bầu trong đại hội 2 của mafia đỏ, giữ ghế bộ trưởng phủ thủ tướng khi Hồ còn đích thân kiêm nhiệm cái ghế thủ tướng ngụy quyền cộng sản, đã hiếp con gái của bạn (một đại tá ngụy quân cộng sản). Đứa bé chưa đầy 17 tuổi đầu.

* Hoàng Tùng, từng là ủy viên ban bí thư trung ương mafia đỏ, thời kỳ làm phó ban tuyên huấn trung ương (phó của Tố Hữu) kiêm tổng biên tập báo Nhân dân của Mafia đỏ, lợi dụng phó tổng biên tập là Thép Mới (tức Hà văn Lộc) theo quân mafia đỏ xâm lược miền Nam, để vợ trẻ ở lại Hà-nội, Tùng đã làm cái việc như Hồ với hôn thê Lê hồng Phong. Quay ra Hà-nội, Thép Mới biết chuyện nên ly hôn. Vợ Thép Mới (C.K.P) khóc lóc, đã làm đơn tố giác với Trường Chinh nhưng hắn lờ đi. Đến đại hội mafia đỏ lần 4, vợ Thép Mới lại tố giác Hoàng Tùng với Lê Duẩn, Lê đức Thọ và Trần quốc Hoàn. Bọn này cũng lờ luôn. Không những thế, chúng còn cho Hoàng Tùng trúng cử và từ cái ghế ủy viên dự khuyết trung ương (khóa 3) nhảy lên thành ủy viên ban bí thư mafia đỏ. Trong vụ này, điều ghê tởm nhất là Hồng Hà (em ruột Thép Mới) đang giữ chức trưởng ban công nghiệp của báo Nhân dân đã toa rập với Hoàng Tùng, giúp Hoàng Tùng “hiếp” chị dâu mình và tống anh ruột vào chiến trường miền Nam, nên được Hoàng Tùng giới thiệu giữ chức tổng biên tập báo Nhân dân và được trúng ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ. Về sau Hồng Hà còn leo tới ghế ủy viên ban bí thư trung ương mafia đỏ, phụ trách trưởng ban đối ngoại. (Hồng Hà là tên bồi bút viết cuốn “Một mùa xuân đại thắng” hộ Văn tiến Dũng và cũng là tên qua Pháp “tìm tài liệu” làm bộ phim về con dê cụ Hồ chí Minh).

* Ung văn Khiêm, từng là ủy viên trung ương mafia đỏ (từ khóa 2) và giữ ghế bộ trưởng ngoại giao. Kẻ đầu tiên thừa lệnh Hồ viết thư ủng hộ “anh hai Trung cộng” chiếm Hoàng-sa và Trường-sa, trong khi chính phủ Ngô Đình Diệm phản đối việc xâm lược của Trung cộng. Khi còn đắc thời, Khiêm thường đến nhà bà quả phụ của một cố bộ trưởng trong Chính phủ Liên hiệp để tập bài bản họ Hồ. Xe hơi và bảo vệ ào ào như công khai ở cái phố Trần Quốc Toản (Hà-nội) đến mức dân khắp khu vực, ai ai cũng biết Khiêm đi tìm của lạ. Vì thế “con sư tử” của Khiêm đến đánh ghen, túm Khiêm xé áo quần làm mất trật tự đường phố. Tổ trưởng dân phố là “nhà văn” Tô Hoài vội chạy ra. Khi thấy Ung văn Khiêm chắc Tô Hoài nhớ lời các cụ ta đã dạy “ăn tìm đến, đánh tìm đi” nên nhanh hơn “dế mèn”, Tô Hoài lủi mất, để việc xử lý cho tổ phó và công an đường phố. Sau vụ án ầm ĩ đó, Tố Hữu “làm mai” cho Hoài Thanh cưới đại bà quả phụ còn rất mặn mà, mặc dù Hoài Thanh đã móm không còn lấy một cái răng dù là răng sâu!

Sau vụ đó, Ung văn Khiêm bị chuyển qua làm bộ trưởng bộ nội vụ.

* Cũng ở cái phố Trần Quốc Toản này lại xảy ra một vụ nữa. Đó là việc Lê Liêm, ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ (xin lưu ý rằng cả Lê Liêm, Bùi công Trừng và Nguyễn khánh Toàn chưa bao giờ là ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ) bị can tội “xét lại”, được Hồ phân công cho Nguyễn Côn, bí thư trung ương mafia đỏ, phó thủ tướng ngụy quyền Hồ chí Minh phụ trách chủ nhiệm ủy ban kế hoạch nhà nước, làm nhiệm vụ giúp Lê Liêm “phản tỉnh”. Chẳng hiểu hai bên làm ăn ra sao mà cứ mỗi lần Nguyễn Côn “khuyên” vợ con đi nghỉ ở Tam Đảo hay Đồ Sơn thì vợ của Lê Liêm là Lê thu Trà (phó chủ nhiệm thường trực ủy ban bảo vệ nhi đồng mà Cù huy Cận cũng là một phó chủ nhiệm) lại đến nhà riêng của Nguyễn Côn (phố Tần Quốc Toản) chơi cả buổi. Chẳng biết ai “méc”, một lần đang nửa đêm, vợ và các con Nguyễn Côn lẻn về dùng chìa khóa riêng mở vào tận phòng và bắt quả tang hai bên không thèm mặc quần áo. Vợ con Nguyễn Côn giữ nguyên tình trạng và cho đi gọi công an đường phố và tổ trưởng dân phố, vẫn là nhà văn “Tô Hoài”. Chuyện ầm ỉ lúc nửa đêm nên dân đến xem khá đông. Tô Hoài gọi cả tổ phó đi cùng rồi mượn cớ ra giải tán đám đông lặn một hơi, mấy ngày sau mới về. Cái này “dế mèn” xin chào thua!

* Nguyễn trọng Vĩnh, thiếu tướng ngụy quân cộng sản, ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ, ủy viên quân ủy mafia, từng được Hồ cho giữ chức cục trưởng cục tổ chức, bộ quốc phòng ngụy quyền Hồ chí Minh; sau sang Lào làm tư lệnh ngụy quân cộng sản chí nguyện kiêm cố vấn tối cao cho Cai-xoong Phông-vi-hãn, tổng bí thư Lào cộng. Chỉ huy và cố vấn gì thì không biết, nhưng Vĩnh và Cai-xoong chiếm hai tòa vi-la liền nhau ở hẻm Nguyễn Gia Thiều (Hà-nội) và tối tối kéo nhau ra nhà bạt của đoàn xiếc trung ương xem biểu diễn. Trong đoàn xiếc, có một diễn viên nữ, gốc Thanh-hóa, lai Pháp, rất đẹp, tên là Mai Sinh, đệ tử ruột của Quang Phòng (tướng an ninh cộng sản) là trung tá Vũ Quân, dù đã có vợ, nhưng vẫn theo đuổi Mai Sinh như bị hớp hồn mà phải bấm bụng nhường cho tướng Nguyễn trọng Vĩnh. Vĩnh khôn ngoan, nhận cô bé Mai Sinh là “con nuôi”, chiều thứ bẩy nào cũng đón về nhà ăn cơm cùng hai vợ chồng hắn. Thế rồi, Vĩnh đã hiếp cô diễn viên mới 17 tuổi đó bị dính bầu. Hắn cho đưa cô ta vào doanh trại ngụy quân ở Đường Thành (Hà-nội) cho đến khi đẻ, hai mẹ con mới về lại đoàn xiếc. Đi không thèm xin phép, về không thèm báo cáo, vậy mà cả đoàn xiếc lẫn cái bộ văn hóa với những Hoàng minh Giám (bộ trưởng), Lê Liêm (khi đó là thứ trưởng, bí thư đảng đoàn mafia) cho đến Cù huy Cận (thứ trưởng) v.v… đều im re, vẫn phải bố trí tiết mục cho cô bé đó, và chẳng ai dám hỏi bố đứa bé là thằng nào! Nhờ thành tích đi đúng bài bản của họ Hồ, Vĩnh được nâng lên thành “đại sứ đặc mệnh toàn quyền” của ngụy quyền Hà-nội tại Bắc-kinh và Trần văn Quang (tên tướng ngụy dính vào vụ tù binh Mỹ) thay chỗ Vĩnh ở bên Lào.

Thực chất tụi chóp bu của cái gọi là “đảng cộng sản Việt Nam” do Hồ đứng đầu là một tập đoàn Việt gian núp dưới lớp áo đảng phái chính trị. Chúng thực thụ là tổ chức mafia, nhưng đã cướp được bộ máy cai trị, cho nên các đầu lĩnh của chúng từ Hồ trở xuống, trong mọi ngành, mọi địa phương đều là những tên mafia đỏ chuyên nghiệp. Cho đến nay là những tên Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Phan văn Khải, Lê khả Phiêu, Phạm thế Duyệt, Nông đức Mạnh, Nguyễn khoa Điềm, Cù thị Hậu, Nguyễn thị Hằng, Võ thị Thắng v.v… chỉ khác nhau về tên, tuổi, khuôn mặt, giọng nói mà thôi, còn từ cái lò mafia đỏ ra, chúng về cơ bản cũng vẫn là một. Hệt như đàn chó, con đen, con đốm, con vàng, con lông xù, con cộc đuôi, nhưng tựu trung “đều là chó”. Cho nên dù Lữ Phương có tặng chúng món hàng cực kỳ xa xỉ là “tính chất trong sạch lý tưởng” và “biết hy sinh vì nghĩa lớn” cũng không che được cái chất chó má của bọn chúng.

Lại xin nói tiếp về tội ác của Hồ.

Sau khi làm xong cái việc: “Trí, phú, địa, hào – Đào tận gốc, trốc tận rễ”, nghĩa là “bần cùng hóa” hay đúng hơn là “nô lệ hóa” toàn dân Việt Nam ở phía Bắc, thì tháng 12/1957, tại hội nghị trung ương mafia đỏ lần 13 (khóa 2), Hồ chủ trì cho ra nghị quyết có nội dung chủ yếu là:

1- Nắm vững chuyên chính, nghĩa là siết chặt xiềng nô lệ, thẳng tay đàn áp những gì không có lợi cho thực dân đỏ;
2- Miền Bắc Việt Nam phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là tập trung toàn bộ tài nguyên và con người ở phía Bắc Việt Nam vào trong tay tập đoàn mafia đỏ, do Hồ cầm đầu, biến thành một bộ phận của chủ nghĩa thực dân đỏ trên thực tế; chuẩn bị thực hiện chiến lược bành trướng của thực dân đỏ.

Vì thế, vấn đề đào tạo nhân sự cho bộ máy thống trị trên mọi bình diện là rất quan trọng. Nhân sự mẫu quốc đỏ núp dưới cái tên “chuyên gia”, điều hành việc khai thác thuộc địa kiểu mới này thông qua hệ thống nhân viên bản xứ.

Các trường đại được học mở ra với mục đích nói trên nên phương pháp tuyển chọn, cũng như đào tạo hoàn toàn khác hẳn ở mẫu quốc: Chất lượng kiến thức là phụ mà lòng trung thành mù quáng mới là chính yếu.

Cho nên, cái mà Hồ nêu lên phương châm đào tạo tầng lớp gọi là “trí thức xã hội chủ nghĩa” là phải làm họ hèn mạt, khuất phục, nhẫn nhục. Nói cho đúng nghĩa thì “trí thức xã hội chủ nghĩa là những cục cứt” hay còn gọi là trí nô.
Việc đào tạo “trí thức” của ngụy quyền Hồ chí Minh hệt như việc huấn luyện thú ở các đoàn xiếc: nghĩa là khủng bố cái bao tử (bỏ đói).

Xã hội miền Bắc Việt Nam sau khi bị Hồ bần cùng hóa triệt để thì miếng ăn hằng ngày, tất cả đều phải ngửa tay trông chờ sự bố thí của ngụy quyền Hồ chí Minh. Xã hội bị phâ chia thành 13 đảng cấp, căn cứ vào đó mà cấp phát khẩu phần lương thực hằng tháng, thực phẩm, chất đốt và các nhu yếu phẩm khác.

Hoạt động sản xuất của xã hội trở thành cái gọi là “lao động (chân tay) để cải tạo bản thân, cải tạo nhân sinh quan”. Đó là thước đo sự cầu tiến của mỗi người từ trẻ đến già, không phân biệt nông thôn hay thành thị, giới tính, sức khỏe, khả năng kỹ thuật chuyên môn, tín ngưỡng v.v… Tất cả đều phải “lao động càng vất vả, kỹ thuật càng thô sơ càng tốt”.

Về lương thực, mỗi đầu dân từ 18 tuổi được phân 13kg500 (kể cả chất độn). Ấy thế mà ngụy quyền Hồ chí Minh còn cắt khẩu phần đó bằng cách đẻ ra trò hề: ủng hộ “anh Trổi; chị Quyên”, ủng hộ “đồng bào miền Nam”; tiết kiệm cho quỹ “chống Mỹ cứu nước”! Thế là mỗi đầu dân thành niên, mỗi tháng bị tập đoàn Hồ chí Minh bóp cổ trắng trợn ăn cướp 3kg. Vậy là hằng tháng chỉ còn 10kg500 cả gạo lẫn chất độn. Các sổ lương thực vẫn in mực đen giấy trắng là 13kg500, nhưng thực tế chúng trừ mỗi người 3kg ngay lần đầu trong tháng đi mua lương thực và chúng rất lưu manh ở chỗ dấu đóng của phòng lương thực trên sổ lương thực gia đình laø “đã mua đủ 13kg500/tháng”. Thế hệ trẻ Việt Nam sau này cũng như quốc tế làm sao hiểu được sự lưu manh bỉ ổi đó của họ Hồ và bè lũ. Đã thế, dù cho có hàng cũng không bao giờ chúng cho mua cả tháng lương thực một lần, mà phải chia nhiều kỳ và mỗi kỳ phải xếp hàng cả buổi mới mua được. Mục đích của tập đoàn mafia đỏ cộng sản tiếm quyền là làm sao cho toàn dân lúc nào cũng đói, lúc nào cũng chửi bới nhau vì một chỗ xếp hàng mua hàng hóa, lương thực; lúc nào cũng tất bật thiếu thời gian vì làm lụng, họp hành, mua bán, đến độ không còn một giây phút để tụ họp, bàn bạc hay một mình suy nghĩ xem bản thân là người hay là trâu, ngựa. Sự lo lắng, sợ hãi về miếng ăn đến mức miền Bắc Việt Nam thời đó có câu: “Trông mặt như mất sổ gạo” để chỉ những người có gương mặt lo lắng, buồn bã!

Đối với một số nước Tây phương thì khẩu phần 13kg500 không làm họ ngạc nhiên vì họ chỉ cần khoảng 6kg là đủ. Bởi vì làm sao họ hình dung được rằng mỗi người dân Việt Nam ở tuổi thành niên dưới chế độ mafia Hồ chí Minh thì năng lượng cung cấp cho cơ thể trong cả tháng chỉ từ 10kg500 lương thực (vì bị trừ như nói ở trên 3kg) cộng với 0kg150 thịt; 0kg100 đường mà thôi!!! Còn bữa ăn người Tây phương thì thức ăn như cá, thịt là chính, chất bột là phụ trợ.

Còn những trí thức tương lai của xã hội, tức sinh viên thì sao? Biết đó là lực lượng “trong trắng và cách mạng” nhất nên Hồ chí Minh và đảng mafia đỏ của hắn cũng áp dụng cách quản lý rất đặc thù của mafia đỏ, cả tổ chức vật chất, lẫn tinh thần. Đó là:

Về tổ chức: Lên đến bậc đại học bắt buộc sinh viên phải sống nội trú tập thể. Ngoài các tiêu chuẩn mang tính cách gọi là “đấu tranh giai cấp” thì muốn vào bậc đại học, bắt buộc phải là đoàn viên thanh niên lao động (sau đổi thành đoàn thanh niên cộng sản Hồ chí Minh), một tổ chức ngoại vi được gọi là “cánh tay mặt của đảng (mafia đỏ)”. Xin lưu ý bạn đọc là, nếu nghe ai nói hoặc viết về bản thân mà khoe rằng sau 1954, bố mẹ đi Nam (ngoại trừ do mafia Hồ chí Minh cài vào nằm vùng trong Nam) ở lại một mình, đã “tẩy chay” không thèm gia nhập “đoàn thanh niên cứu quốc” (sau đổi thành lao động, rồi lại đổi thành cộng sản) mà vẫn được vào đại học (lại còn học ngành địa chất là ngành vừa quan trọng vừa mang tính bí mật quốc gia) thì nên hiểu là:
1) Lỡ mồm nói (hoặc viết) phét quá trớn;
2) Một thứ “tin giả” để có người chưa biết gì về cộng sản (đặc biệt là tuổi trẻ ở hải ngoại) ngộ nhận về cái gọi là “tính giai cấp” trong công tác đào tạo của mafia đỏ.

Trước 1975, người duy nhất được vào đại học mà chưa là “đoàn viên thanh niên lao động” là Tôn thất Bách, con trai bác sỹ Tôn thất Tùng – người được Trường Chinh bảo trợ. Nay Tôn thất Bách cũng là một nghị gật của quốc hội ngụy quyền Hà-nội, khóa 10.

Sau 1975, ngay tiêu chuẩn để có thể tốt nghiệp hết cấp 3 phổ thông, thì phải đạt tiêu chuẩn là “đoàn viên thanh niên cộng sản”. (Cứ hỏi học sinh ở Sài-gòn xem).

Trường “đại học” duy nhất trước 1975 không cần phải có tiêu chuẩn “đoàn viên thanh niên lao động”, là “đại học nhân dân” với Hoàng minh Giám làm hiệu trưởng, Đoàn trọng Truyến làm tổng thư ký và Nguyễn văn Trấn (tác giả “Gửi Mẹ và quốc hội”) làm giảng viên thường trực!!! Cái trường theo sáng kiến của Hồ.

Trong tập thể sinh viên, ngoài thành phần học sinh tốt nghiệp cấp 3 phổ thông ra, còn có thành phần gọi là “công nông”. Đó là những người lớn tuổi, là cán bộ hoặc binh lính của mafia đỏ, được chọn lọc cho đi học tắt qua các trường gọi là “bổ túc công nông” hoặc “bổ túc văn hóa ngoài giờ”. Tụi này hoặc là đảng viên mafia đỏ cốt cán, hoặc là đối tượng sẽ kết nạp của mafia đỏ, hoặc là tụi ưa tố cáo, vu khống bới móc, chỉ điểm ở các cơ quan, binh lính, nông trường, công trường hay hợp tác xã các loại. Nói tóm lại, bọn chúng được coi là “trí thức tương lai xã hội chủ nghĩa” hay “cán bộ khung tương lai” của chế độ Hồ chí Minh! Bọn chúng được lựa chọn trên cơ sở “đấu tranh giai cấp” chứ không từ khả năng học vấn và được coi là nguồn nhân sự sẽ bổ sung cho các ngành, các cấp của chế độ mafia đỏ nên chúng chỉ cần biểu hiện “lập trường vô sản” vững chắc chứ không cần kiến thức. Trường đại học chính là môi trường cho tụi này thực tập làm “cán bộ chủ chốt, cán bộ khung” trong tương lai của chế độ mafia Hồ chí Minh. Vài thí dụ điển hình của loại này như:

1- Phạm thế Duyệt, gốc Thái-bình, làm việc ở mỏ than Hòn-gai thời kỳ Nguyễn đức Tâm làm bí thư tỉnh ủy mafia đỏ ở tỉnh Quảng-ninh (Bắc Việt), được cho về học ở trường đại học sư phạm 1 Hà-nội, leo tới ghế ủy viên chính trị bộ mafia đỏ thời Lê khả Phiêu.
2- Hoàng đình Cầu, từ cứu thương trong lính mafia đỏ, học tắt vào đại học y khoa, ngành phong trào, ra làm thứ trưởng kiêm bí thư đảng đoàn mafia đỏ ở bộ y tế, thời kỳ bác sỹ Nguyễn văn Hưởng cho đến đại tá Vũ văn Cẩn làm bộ trưởng.
3- Bạch Vân, gốc Yên-bái, từ lính quân báo mafia đỏ, được về học Anh văn tại đại học sư phạm 1 Hà-nội, nay là tướng an ninh quân báo của mafia đỏ.
4- Phan đắc Lập, nhân viên tài vụ của văn phòng tổng cục bưu điện – truyền thanh, được cho đi học bổ túc công nông rồi vào đại học tổng hợp văn của Hà-nội; sau ra làm việc tại đài phát thanh Hà-nội; sau 1975 vào Sài-gòn và là kẻ dưới sự chỉ đạo của Trần văn Giàu đã viết bài chửi cụ Hồ hữu Tường trong tập “Những tên biệt kích ngụy trên mặt trận văn hóa – văn nghệ”.

Không có nhận xét nào: