Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2008

Sự Tích Con Yêu Râu Xanh - Bài 8







Xin được phép phân tích như sau



Năm 1954, dù có vừa mù vừa điếc thì ai ai cũng biết rằng uy tín của Hồ, quyền lực của Hồ là tuyệt đối, Lê Duẩn khi đó còn ở dưới Trường Chinh. Sau Hồ thì uy tín cũng như quyền là thuộc về Võ nguyên Giáp. Vậy Lê Duẩn có dám chống Hồ và Giáp (chưa kể Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt và đàn em tin cẩn nhất của Hồ là Phạm văn Đồng) hay chấp hành lệnh của Hồ là cài người lại. Cũng có kẻ “tung tin” rằng Lê Duẩn “lén” cài người lại. Có thể lén cài những kẻ còn vô danh tiểu tốt như mấy anh trốn ra bưng sau này, nhưng làm sao lén được những cái tên như Nguyễn văn Linh, Nguyễn văn Sô, Võ chí Công, Nguyễn đức Thuận, Phan văn Đáng, Trần bạch Đằng, La văn Liếm, Nguyễn Chánh, Trần nam Trung v.v… Bọn chúng toàn là mafia kềnh chẳng lẽ ở lại mà không có lâu la, tà lọt dám trái lệnh Hồ ở lại làm cái gì, theo “địch” chăng? Hồ là kẻ chỉ có đi lừa và chơi gác người lại để cho đàn em qua mặt sao?

Những người “buôn tin giả” đó kể rằng tướng Giáp nhận được thư riêng của Khơ-rút-xốp không trình bộ chính trị nên bị qui chụp, sau nhờ Hồ nói: “Chú Giáp có đưa cho Bác xem rồi”, nên chuyện của Giáp mới được yên. Thật là lạ, nếu Hồ đã mất hết quyền mà chỉ một câu “Bác xem rồi” khiến cả bọn Lê Duẩn, Lê đức Thọ im re, cài số lùi thì “thánh” cũng không hiểu nổi mấy ông “buôn tin giả”, kiếm chuyện làm quà với đồng bào hải ngoại!!! “Chống cộng” mà vẫn lấy làm vạn hạnh vì được chụp ảnh chung với Hồ, được ngủ chung với Hồ, được huân chương của Hồ, là công thần của chế độ mafia cộng sản, là công dân số một v.v… thì quả rằng cần cân nhắc lại cái “động cơ chống cộng” là vì dân hay vì cái gì?

Vì sao lại có cái mâu thuẫn ấy? Xin phép được “mao tôn cương” tý chút. Đó là một mặt vì quyền lợi phe phái va chạm hoặc cũng có thể nhận thấy chất mafia Việt gian của tập đoàn ngụy quyền cộng sản nên ly khai, nhưng chưa phản tỉnh (duy nhất có cụ Nguyễn Hộ là có thái độ dứt khoát) vì thế cũng muốn núp sau cái thây ma của Hồ để ra cái điều “ta yêu nước từ chân tới tóc”, chứ chưa bao giờ mê anh cả Nga-xô hoăc anh hai Trung cộng.

- Ai đẻ ra mặt trận Liên Việt và xóa sổ mặt trận Việt Minh, tại sao?

- Ai đẻ ra mặt trận Tổ quốc và xoá sổ mặt trận Liên Việt, tại sao?

- Ai đẻ ra hiến pháp 1959 (thực ra được biên soạn xong từ 1958), tại sao?

- Ai đẻ ra “cải cách ruộng đất” rồi lại “sửa sai cải cách ruộng đất” mà người phát hiện sai lầm thì bị đuổi việc, đàn áp hết cả cuộc đời, còn kẻ có tội thì cứ lên như diều?

- Ai bỏ bộ tư pháp và khoa luật, rồi cai trị bằng sắc lệnh, tại sao?

- Ai tuyên bố dù có đốt cả dãy Trường-sơn, dù có 5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa thì cũng phải “xâm lược” bằng được miền Nam Việt Nam?

- Ai đẻ ra cụm từ “ngụy quân, ngụy quyền” miền Nam? Và “Mỹ mà xấu”?

- Ai bắt tù đào “hồ suối Hai” để cải “long mạch” rồi chôn những chiếc răng sâu ở đó (để phát cho thằng con hoang)?

Hàng vạn câu hỏi như vậy, nhưng người ta vẫn giả điếc giả mù để trích dẫn ông Tây này bà Đầm nọ mà bỏ qua những sự thực họ đã và đang sống trong đó, chứ không phải “cưỡi ngựa xem hoa” như Tây và Đầm.

Đúng như bậc lão thành chống cộng, cụ Phan Khôi, đã nói: “Bạn đã cố tình tôi biết nói làm sao?” Chẳng làm sao cả, chỉ cần đừng đọc, đừng nghe, đừng để chúng có cơ hội tung hỏa mù. Muốn thế, những ngòi bút, những tiếng nói chính nghĩa cần hoạt động nhiều hơn nữa, phổ biến cả trong cộng đồng người Việt, cả cộng đồng quốc tế những sự thật không thể chối cãi về Hồ và cái tập đoàn Việt gian “công dân búa liềm” của hắn.

Nhân dân Việt Nam, vì là nạn nhân, rất sáng suốt khi thấy:


“Ba mươi năm ăn cướp, tướng Võ không còn Nguyên Giáp,
Cả cuộc đời bán nước, họ Hồ mất hết trí minh.”


Đến giờ phút này, loại trừ bọn tội phạm ngụy quyền cộng sản, chỉ có những kẻ “theo đóm ăn tàn”, cơ hội mánh mung hoặc thân phận “nửa tội phạm nửa nạn nhân” mới cố tình mơ hồ về những tội ác tàn bạo của tên Việt gian Hồ chí Minh là nguyên nhân đẩy đất nước Việt Nam xuống hạng áp chót của thế giới!!!

Sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, Hồ chiếm được miền Bắc Việt Nam, nhờ vẫn tiếp tục đội lốt của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, nhờ vẫn che đậy bằng ngọn cờ “giải phóng dân tộc” chống thực dân, nên trong và ngoài Việt Nam còn nhiều người mơ hồ, chưa nhận ra rằng cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã bị thoái hóa thành chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ.

Nhưng khi Hồ công khai vi phạm hiệp định Genève 1954 về Việt Nam; công khai đảo ngược nguyện vọng của toàn dân để thiết lập chế độ thực dân đỏ núp dưới mỹ tự là “xây dựng chủ nghĩa xã hội”; công khai vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam thì không có cách nào bào chữa cho dã tâm của Hồ là hắn bất chấp quyền lợi của nhân dân Việt Nam để thực hiện chiến lược toàn cầu của mẫu quốc đỏ.


- Việc Hồ ra lệnh cài nhân sự lại miền Nam Việt Nam ngay khi ký hiệp định Genève 1954 về Việt Nam;

- Việc Hồ ra lệnh thực thi chuyên chính ở miền Bắc Việt Nam nhằm nắm trọn vẹn cả người cả tài sản của miền Bắc Việt Nam để chuẩn bị chiến tranh bành trướng vào miền Nam.

- Việc Hồ ra nghị quyết về vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam (nghị quyết 15, tháng 1-1959), rồi tiến hành mở đường vào Nam, đặt thành bộ tư lệnh “công trường 59” và giao trách nhiệm cho tên sát nhân đồng bào Ba Làng, là Đồng sĩ Nguyên (tên thật là Nguyễn văn Đổng) làm tư lệnh; đưa người và vũ khí vào Nam;

- Việc Hồ triệu tập cái gọi là “hội nghị chính trị đặc biệt” (làm như kiểu Diên Hồng thời Trần) để động viên toàn lực xâm lược miền Nam Việt Nam; thăm dò dư luận quốc tế;

- Việc Hồ nặn ra cái gọi là “đảng nhân dân cách mạng” và chỉ định đại tướng ngụy quân Bắc Việt là Nguyễn chí Thanh vào làm bí thư, cũng như cho một lũ tướng ngụy quân ở Bắc vào như Hoàng văn Thái, Trần văn Quang, Hoàng Cầm, Trần Độ v.v… Cũng như dựng ra cái chính phủ phường chèo “giải phóng” mà Lữ Phương sau này được đóng “diễn viên loại 2” (vì mới được là thứ trưởng cái bộ văn hóa “ở trong bưng”!!!);

- Việc Hồ là kẻ đầu tiên đưa ra sử dụng cụm từ “ngụy quyền Sài-gòn” là cái chính phủ mà hắn đã thừa nhận tính hợp pháp và tính chính thống qua văn bản của hiệp định Genève 1954 về Việt Nam. Cũng như hắn công khai lên tiếng đòi lật đổ chính phủ hợp hiến ở miền Nam Việt Nam;

- Việc Hồ dùng những lời khát máu như “dù đốt cả dãy Trường-sơn” dù “5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa” cũng phải xâm lược bằng được miền Nam Việt Nam, bất cần hậu quả. Cần nhớ rằng miền Nam Việt Nam vẫn chỉ là người Việt Nam sinh sống. Không đếm xỉa gì đến hạnh phúc, lợi ích của nhân dân miền Nam. Không đếm xỉa đến nhân dân miền Bắc Việt Nam. Mục đích cuối cùng của Hồ chỉ là mở rộng bờ cõi của thực dân đỏ mà thôi. Dù là óc đất cũng thấy được diện mạo của Hồ đúng là một thằng đại Việt gian;

- Việc Hồ động viên, đề cao những kẻ ngu muội theo “con đường của Hồ” để giết hại nhân dân miền Nam Việt Nam, tàn phá các công trình kinh tế, xã hội của miền Nam Việt Nam chắc chắc không thể coi đó là hành động và suy nghĩ của một người Việt Nam bình thường chứ chưa nói đến là kẻ đang nắm quyền cai trị. Nhân dân và đất nước Việt Nam trong con mắt họ Hồ còn không bằng cách hành xử của một số thái thú thời Bắc thuộc như Nhâm Diên,Tích Quang hay lũ quan thực dân Pháp;

- Năm nào Hồ cũng làm vè đầu xuân để cổ động việc xâm lược miền Nam Việt Nam, kể cả vụ Tết Mậu Thân 1968. Chính Hồ là kẻ viết và đọc lệnh sau:


“Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào
Tiến lên chiến sỹ, đồng bào
Bắc-Nam sum họp Xuân nào vui hơn!”


Lập tức bài vè này của Hồ được tên bút nô Phạm Tuyên phổ nhạc và cho phát ông ổng cả ngày, cả đêm.

Kẻ nào “quả quyết” rằng Hồ không biết gì về vụ Tết Mậu Thân là “cố tình giả mù”. Hãy xem lại những thước phim về Hồ chủ tọa các cuộc họp quân sự. Hãy đọc lại hồi ký của các tướng cộng sản xem. Ngay tướng Trần Độ cũng viết rằng mỗi lần ở Bắc quay lại Nam đều được Hồ cho ăn cơm. Vậy chẳng lẽ Trần Độ biết mà Hồ vẫn mù tịt chăng? Phải nói rằng, chỉ có những đứa cố tình chạy tội sát nhân cho Hồ, những đứa “cuồng tín ngu xuẩn” mới tin lập luận rằng Hồ không biết gì về Tết Mậu Thân. Hồ là một thằng dám hạ lệnh giết và bỏ tù 5% dân số nông thôn miền Bắc Việt Nam; cho lệnh tiêu diệt vụ Ba-làng; cho giết hàng vạn đồng bào người Mèo ở Hà-giang (các huyện Mèo-vạc và Phó-bảng) và bao vụ như “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, “chỉnh đốn tổ chức” v.v… thì cái chết của ba ngàn đồng bào ở Huế mà Hồ gọi là “ngụy” nào có nghĩa lý gì trong hồ sơ diệt chủng của Hồ!!!

- Năm nào Hồ cũng chủ trì hội nghị quân sự để chỉ ra nhiệm vụ mới cho ngụy quân cộng sản trong thực thi vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam và khen thưởng, nâng cấp, gắn huân chương, huy chương cho những tên có nhiều nợ máu với nhân dân miền Nam Việt Nam (có thể đọc lại các báo cáo của ngụy quyền Hà-nội lúc Hồ chưa bị đưa đi hỏa ngục, chưa bị phanh thây nhồi bông làm thú triển lãm ở Ba-đình (Hà-nội), cũng như các phim tư liệu về Hồ và về ngụy quân cộng sản);

- Trước năm 1954 đã đành, ngay sau khi làm “chủ” miền Bắc Việt Nam, Hồ đã và vẫn tiếp tục cho phá hoại các cơ sở tôn giáo, nếp sinh hoạt tinh thần của nhân dân miền Bắc Việt Nam;

- Hồ cho hủy hiến pháp 1946, đẻ ra hiến pháp 1959 không thèm trưng cầu dân ý. Hắn hoàn toàn làm ngược lại tất cả những gì mà hắn viết trong tuyên độc lập và v.v…

Tất cả những sự việc trên không thể nào đổ tội cho Lê Duẩn và Lê đức Thọ được.


*****

Sự thật về đấu đá nội bộ mafia đỏ khi Hồ còn sống

Nhiều người viết về Hồ, cả trong nước và ngoại quốc (không kể lũ bồi bút cố tình nâng bi) đều mắc sai lầm cơ bản:

- Sai lầm vì dựa vào cái khung tài liệu do Hồ tự phịa về mình cùng với các sản phẩm giả mạo do ngụy quyền Hồ chí Minh sản xuất trong một thời gian lâu dài;

- Sai lầm vì dựa vào những sách, báo ngoại quốc do người viết bị dẫn dắt bởi quan điểm chính trị hơn là với tư cách nhà nghiên cứu; nên thiếu trung thực;

- Sai lầm vì nếu có người nào đó cố làm đúng với tính cách nhà nghiên cứu, biên khảo thì họ lại không bao giờ hiểu được rằng tập đoàn Hồ chí Minh (từ Hồ cho đến nay là Nông đức Mạnh – thằng con hoang của Hồ) bao giờ cũng viết một đằng làm một nẻo. Cho nên chỉ nằm trong chuồng mà nghiên cứu các văn bản, các nghị quyết, và, nếu có tham quan thì theo kiểu “chuồn chuồn đập nước”, hoàn toàn thiếu vốn thực tế tối thiểu, cho nên công trình nghiên cứu dù ít hay nhiều, đều lợi cho tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh;

- Sai lầm vì trước khi viết về Hồ thì đã bị ngộ độc bởi sản phẩm, dư luận do Hồ và đồng bọn cả trong và ngoài nước tung ra nên bị hồ đồ, không phân biệt được nổi thực và giả. Nhất là những ai xin gặp trực tiếp Hồ đều phần lớn bị Hồ đóng kịch qua mặt hết. Bản chất của Hồ cộng với quá trình làm nghề gián điệp lâu năm khiến Hồ lúc nào cũng đóng kịch, lúc nào cũng giả dối cả những cái không cần thiết; nắm bắt tâm lý đối tượng rất nhanh và ứng phó cũng rất nhanh. Tính cách của Hồ hệt như mấy tên bán thuốc giả, lừa con bệnh ở các bến xe, bến tàu v.v…

Đàn em của Hồ sau này, từ Lê Duẩn trở xuống, đến nay là bọn Nông đức Mạnh, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn văn An, thậm chí cả anh hoạn lợn Đỗ Mười cho đến cai đồn điền cao-su có nợ máu với công nhân là Lê đức Anh, về tầm cỡ so sánh giống hệt con voi con với con ma-mút già vậy.

Vốn “học đường” của Hồ thì kém, nhưng Hồ học ở trường đời nhiều; lăn lộn đủ các thứ nghề; bôn ba khắp mọi chỗ; giao du đủ mọi tầng lớp; chịu ảnh hưởng sách cổ của Tàu nên Hồ biết lúc chưa có cơ hội cũng dám ăn cứt như Câu Tiễn, và khi đắc thế thì tàn bạo còn hơn vua Trụ. Thí dụ cụ thể: Trong chiến dịch biên giới 1950, đường đường là chủ tịch một nước nhưng Hồ hết sức khúm núm với đại tướng Trần Canh của Trung cộng; cùng đi chung ô-tô, Hồ đội mũ, quấn khăn che râu, ngồi sau thùng xe tải, nhường cho Trần Canh ngồi ở ca-bin. Trần Canh ăn cơm xong, Hồ xun xoe đưa khăn cho Trần Canh lau mồm và bưng nước cho Trần Canh uống. Nhưng, đến 1962, giữa lúc cuộc đấu “xét lại” và “giáo điều” của Nga-xô và Trung cộng đang gay go, biết mình có giá, nên khi đoàn đại biểu bộ bưu điện và viễn thông của Trung cộng qua thăm Bắc Việt Nam, do cả bộ và thứ trưởng (là ủy viên trung ương đảng của Trung cộng) đến phủ chủ tịch chào Hồ, hắn mặc bộ đồ nông dân màu nâu phanh hết khuy áo, đoàn Trung công đến rồi hắn mới bắt đầu bỏ kéo tỉa lá sâu héo ở vườn đi ra, rất là “kẻ cả”. Thế rồi, đến lúc ốm nặng, sợ chết, hắn cho mời Lý Ban (thứ trưởng bộ ngoại thương, dự khuyết trung ương mafia đỏ) đến và năn nỉ: “Tiên sinh có thể xin với Chu thủ tướng cho tôi sang Trung quốc chữa bệnh được không?” (vì đối với Việt Nam thì Lý Ban giữ chức vụ như nói trên, nhưng ngoài ra Lý Ban là phái viên của cộng sản Tàu bên cạnh mafia cộng sản của Hồ). Nên nhớ Lý Ban còn rất trẻ so với Phạm văn Đồng mà Hồ đội lên là tiên sinh (chuyện này do Lý Ban viết đăng trên tờ Nhân dân của ngụy quyền Hà-nội).

Khi bị Trương phát Khuê bắt bỏ tù, hắn viết phản tỉnh xin được làm tay sai cho Khuê trong kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”. Hắn năn nỉ các cụ Hồ học Lãm và Nguyễn hải Thần để được gia nhập Việt Minh và xin về hoạt động ở biên giới Việt-Hoa. Khi gặp Trường Chinh, biết chưa thể lừa Trường Chinh được, hắn nâng bi Trường Chinh “một điều đồng chí tổng bí thư, hai điều đồng chí tổng bí thư”, và tỏ ra an phận nằm trong hang Pắc-bó (Cao-bằng) dịch sách, tạc tượng. Nhưng khi đắc thế, hắn lờ cụ Hồ học Lãm như không hề tồn tại trên đời và là ân nhân của hắn; tìm mọi cách tiêu diệt uy tín của cụ Nguyễn hải Thần. Còn với Trường Chinh, hắn dùng ngay chữ “bác” của Trường Chinh để ngồi ở bậc trưởng thượng của Trường Chinh. Rồi bày trò đặt tên để vừa hạ Trường Chinh vừa sử dụng Trường Chinh. Đó là việc hắn lấy khẩu hiệu “trương kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” đặt cho cái gọi là “những người phục vụ của “bác Hồ”, gồm:

Trường: là Trường Chinh;

Kỳ: là Vũ Kỳ, thư ký “thứ thiệt” của Hồ (vì còn nhiều thư ký chỉ dùng kiểu đối phó với hoàn cảnh chính trị lúc ấy. Tỷ dụ: dùng một người công giáo để làm “an lòng” đức cha Lê Hữu Từ; khi qua Pháp dùng cả thạc sỹ sử học Phạm huy Thông để dụ khị người Việt ở Pháp v.v…);

Kháng: là bảo vệ của Hồ, sau ra làm chỉ huy trưởng bộ tư lệnh cảnh vệ (tức chó berger hai chân);

Chiến: là bảo vệ kiêm lái xe; kẻ đưa đón cô Nông thị Xuân cho Hồ giải quyết sinh lý. Sau này giữ chức tổng cục trưởng tổng cục thể dục thể thao;

Nhất: là người giữ máy phát điện đài, sau cho làm phó tổng biên tập đài phát thanh trung ương, kiêm cục trưởng cục truyền hình;

Định: là tên thợ ảnh, sau cho làm chủ tịch hội nhiếp ảnh;

Thắng và Lợi: đều là cần vụ kiêm bảo vệ (đúng nghĩa là bồi).

Hồ thường dùng các trò tiểu xảo để “hạ bệ” đối phương bằng cách gặp ai cũng đặt tên, hoặc bí danh cho họ. Y như đặt tên cho “chó” vậy. Kẻ nào chấp nhận cái tên do Hồ đặt cho là tự nhiên tụt xuống hạ phong, thừa nhận “thân phận khuyển mã, gia nô” của Hồ!!!

Những phần trên cho thấy âm mưu của Hồ trong việc hạ phe Trường Chinh, nhưng tại sao chỉ hạ mà không tiêu diệt? Tại sao Hồ lại chọn Lê Duẩn thay ngôi vị của Trường Chinh mà không phải là Phạm văn Đồng hay Võ nguyên Giáp?

Muốn giải đáp được tất cả những điều đó cũng như muốn làm sáng tỏ những thêu dệt xung quanh Hồ, sau khi Hồ chết, tỷ như:

- Phe Lê Duẩn đã thay đổi ngày giờ chết của họ Hồ; đã sửa “di chúc” của Hồ; đã “làm sai nguyện vọng” của Hồ là hắn muốn được hỏa thiêu chứ không phải xây lăng;

- Phe Lê Duẩn “hiếu chiến” và là kẻ chịu trách nhiệm về cuộc tàn sát ở Huế (Tết Mậu Thân), về xâm lăng miền Nam Việt Nam, về gây chiến ở Cam-bốt, mà trước đó thì thân Trung cộng nên đã đẻ ra cái gọi là nghị quyết 9 (khóa 3) tức là “Mao-ít” mà trong hội nghị Lê đức Thọ đã “lấn át” không cho Hồ phát biểu;

- Và có đúng như Lữ Phương viết rằng: “… nhưng từ bên ngoài, nhiều người đã thấy khá nhiều những bực bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái đám âm binh cách mạng của ông. Có nhiều chuyện không vui vẻ lắm, nhưng chuyện ông bị cho ra rìa suốt trong quãng đời còn lại trước khi ông mất là đáng chú ý nhất”.

Trước khi bàn về những điều nêu trên, tôi xin được lưu ý với bạn đọc rằng:

- Hồ là con người ích kỷ và thực dụng tàn bạo. Hắn là loại người mà tình cảm là món hàng xa xỉ. Thí dụ: Năm 1925, mới bước vào hoạt động thì đã bán cụ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp, vừa triệt người yêu nước chân chính, vừa có tiền ăn nhậu và lập tổ chức Việt gian phục vụ cho Nga-xô.

Tiếp theo là bán cuộc khởi nghĩa của cụ Nguyễn Thái Học.

Rồi hắn bán ngay cả những thanh niên do nhóm Trần Phú, Hà huy Tập giới thiệu qua Tàu gặp hắn. Mục đích của hắn là nếu những thanh niên đó và gia đình, bạn bè của họ bị Pháp bỏ tù, khủng bố, nghĩa là ở vào con đường cùng thì có lợi cho việc hắn tổ chức hoạt động của hắn sau này; vừa có tiền nhậu nhẹt, hút thuốc thơm, ở khách sạn “cực kỳ sang trọng” (hồi ký của Nguyễn lương Bằng) lại khoét sâu được tội ác của thực dân Pháp hơn lên. Làm như thế là hắn đẩy những nạn nhân đó của hắn vào con đường phải chống thực dân Pháp đến cùng. Thật là hiểm độc! Sau năm 1954, chị gái ruột của Hồ lặn lội từ Nghệ-an ra thăm hắn mà hắn không cho gặp. Ăn chực nằm chờ lâu quá, bà ta phải ra về, vừa đi vừa chửi Hồ. Khi làm thí điểm “cải cách ruộng đất” ở Thái-nguyên, hắn đã bỏ mặc cho bà Nguyễn thị Năm bị tử hình, mặc dù bà ấy đúng ra là trong “thành phần địa chủ kháng chiến yêu nước”, và là người đã nuôi Hồ và cả lũ đàn em của Hồ trong những năm đầu của kháng chiến chống Pháp. Đối với “tình yêu” cũng thế, hắn chỉ cần thỏa mãn tính dục còn hệt như Sở Khanh, như việc của Nguyễn thị Minh Khai, của Nông thị Xuân v.v… Ngay Võ nguyên Giáp, cúc cung tận tụy với hắn, nhưng hắn vẫn cảnh giác cho ngồi chung một chuồng với Nguyễn chí Thanh để hai bên tự giám sát nhau, không ai dám âm mưu phản hắn. Đó là cách dùng người của Hồ, dù ở bất cứ cơ quan nào, ngành nào.

Xin nêu vài thí dụ cụ thể nữa để rõ thêm. Như ở nông thôn, sau cải cách ruộng đất thì dù là “chính quyền” hay “đảng”, bao giờ cũng có hai phe kình chống nhau: a) phe tố láo, vu láo; b) phe là nạn nhân của tố láo được “sửa sai”.

Bộ công an giao Trần quốc Hoàn, ủy viên dự khuyết chính trị bộ mafia đỏ, giữ ghế bộ trưởng; có Lê quốc Thân, ủy viên trung ương mafia đỏ, làm thứ trưởng thứ nhất, Lê quốc Thân theo Hồ và làm bảo vệ của Hồ từ Vân-nam (Tàu). Trong khi đó, Hồ lại giao cho Trần hữu Dực, chỉ là ủy viên mafia đỏ thôi, giữ ghế phó thủ tường kiêm chủ nhiệm văn phòng nội chính phủ thủ tướng. Nghĩa là về “đảng” thì Dực dưới Hoàn, về “chính quyền” thì Dực trên Hoàn và làm cái việc giám sát Hoàn.

ở tổ chức trung ương, trước kia Lê văn Lương là trưởng ban, Lê đức Thọ là phó ban. Sau “sửa sai” của “chấn chỉnh tổ chức” Hồ cho đảo ngược: Lê đức Thọ là trưởng ban, có Vũ Oanh, có Đặng thị Kỳ (vợ Văn tiến Dũng) làm tà lọt. Còn Lê văn Lương xuống làm phó cho Thọ, có Hà thị Quế cùng phe. Giúp Lê văn Lương cày nát nhân sự trong khu tư của “chấn chỉnh tổ chức”, trong khi Lương bị giáng chức thì hai tên trực tiếp phạm tội là Đặng Thí và Đặng việt Châu được Hồ thưởng cho cái ghế “ủy viên trung ương mafia đỏ”. Đặng việt Châu sau còn được cho lên ghế phó thủ tướng.

ở ban tuyên huấn trung ương, Hồ cho Tố Hữu làm trưởng ban thay Trường Chinh, và cái ghế ủy viên bộ chính trị, nhưng các phó ban như Hà huy Giáp (ủy viên trung ương) thứ trưởng thứ nhất bộ văn hóa kiêm bí thư “đảng đoàn “ bộ văn hóa, kiêm bí thư “đảng đoàn” hội liên hiệp văn học nghệ thuật; và Trần quang Huy, dự khuyết trung ương mafia đỏ kiêm bộ trưởng chủ nhiệm văn phòng văn giáo phủ thủ tướng lại là hai tay vừa khinh vừa ghét Tố Hữu. Còn Hoàng Tùng, dự khuyết trung ương mafia đỏ, tổng biên tập báo Nhân dân, tuy là phó của Tố Hữu nhưng cũng coi thường Tố Hữu. Lại thêm giữa Trần quang Huy và Hoàng Tùng, chúng ghét nhau như chó với mèo.

Ngay trong cái gọi là đại hội 2 của mafia đỏ, họp ở Việt-Bắc, cuối năm 1951, về nhân sự Hồ đã bố trí cho phù hợp với âm mưu lâu dài.

1. Hồ vẫn để Trường Chinh giữ ghế tổng bí thư vì chưa có cớ và chưa đúng thời cơ để lật Trường Chinh. Hơn nữa, Trường Chinh là tên thân Trung cộng, từ cái bí danh “Trường Chinh” cũng bắt nguồn của cuộc “trường chinh” của Mao. Tất cả các “tác phẩm” của Trường Chinh cũng là bắt chước Mao, như “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” được sao chép từ cuốn “Bàn về đánh lâu dài” hay “Đề cương văn hóa” là từ “Bài nói chuyện ở Diên-an” của Mao v.v… Vả lại, Hồ đang cần Trường Chinh trong tổ chức cuộc chiến ở miền Bắc lúc đó và sẽ dùng Trường Chinh và phe cánh Trường Chinh trong âm mưu về “cải cách ruộng đất” v.v…

2. Đưa Lê Duẩn vào ngôi vị thứ hai là chuẩn bị cho bước xâm lược miền Nam sau này.

Cũng nên nhớ rằng, ngay dưới thời Nguyễn văn Cừ làm tổng bí thư mafia đỏ, Lê Duẩn đã có bài viết ca ngợi “lãnh tụ Nguyễn ái Quốc (tức Hồ)”. Nghĩa là, Duẩn là tên mafia đỏ Việt Nam đầu tiên đã nâng bi Hồ từ lúc Hồ còn hàn vi! Cho nên sau cái gọi là “cách mạng tháng 8/1945”, trong lúc Trường Chinh sai Hoàng quốc Việt vào Nam để ngăn sự lộng hành của bọn Trần văn Giàu và Dương bạch Mai mà quên việc cho đón Lê Duẩn ở Côn-đảo về đất liền. Rồi khi Duẩn đã được về đất liền, thì chỉ được cho làm một chức rất khiêm tốn là “trưởng phòng dân quân Nam-bộ”! Phải nhờ Hồ cử Lê đức Thọ vào Nam để “chỉnh đốn” lại xứ ủy mafia đỏ miền Nam và tiến cử Lê Duẩn vào chức vụ “bí thư xứ ủy”. Rồi ở đại hội 2, Hồ đặt Duẩn ở vị trí chuẩn bị cho việc thay thế Trường Chinh.

3. Phạm văn Đồng được Hồ đặt ở vị trí số 3 trong hệ thống tổ chức mafia đỏ. Hồ rất tin Đồng, nhưng biết Đồng chỉ trung thành chứ không đủ mánh lới thực hiện những âm mưu của Hồ. Vì thế, khi Hồ kiêm ghế thủ tướng thì Đồng làm phó cùng giữ luôn ghế bộ trưởng ngoại giao. Sau khi vào Hà-nội (1954), Hồ cho Đồng cái ghế thủ tướng ngụy quyền Hà-nội. Hồ dùng Đồng làm “quả cân phụ” để giữ thăng bằng trong các cuộc họp chính trị bộ mafia đỏ, cũng như là người biểu lộ quan điểm của Hồ (khi Hồ cần ném đá giấu tay). Vì, Hồ muốn nếu có “xáo trộn” trong “đảng” thì “chính quyền” trong tay Đồng vẫn vận hành để cai trị dân có hiệu quả. Nên nhớ rằng, từ khoảng cuối 1962, trên thực tế là Phạm văn Đồng ăn ngủ tại “phủ chủ tịch” với Hồ cho đến lúc Hồ chết. Căn nhà riêng của Đồng ở đường Khúc Hạo chỉ dùng làm cảnh mà thôi.

4. Võ nguyên Giáp nhờ Hồ mà nhảy vọt vào chính trị bộ chính thức, cũng như từ trung đội trưởng lên như tên lửa thành đại tướng tổng tư lệnh, bí thư quân ủy trung ương, bộ trưởng quốc phòng, phó thủ tướng. Nghĩa là Hồ cho Giáp thật rộng tay để hoàn thành mục tiêu quân sự. Nhưng chính Hồ đã từng căn dặn các đệ tử rằng: “Không được chia quyền lãnh đạo vũ trang”, “quân đội là xương sống của cơ quan chuyên chính”, “quân đội là trường học đào tạo cán bộ cho đảng, là chỗ dựa vững chắc của đảng”, thì đời nào hắn không “thủ cẳng” đối với Giáp. Cho nên giống hệt kiểu “Lưu Bang dùng Hàn Tín”, khi đã chiếm được nửa nước phía Bắc Việt Nam, Hồ để Nguyễn chí Thanh (vật đối trọng của Giáp ở ngụy quân) chặt hết chân tay thân cận của Giáp. Rồi sau đó cử Thanh vào chỉ đạo cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam vì: một là Thanh là phần tử thân Trung cộng, rất được Trung cộng tin, nên qua Thanh chỉ huy thì xin súng đạn và các viện trợ của Trung cộng cho việc xâm lược miền Nam dễ hơn; và hai là, Thanh sẽ ganh đua với Giáp, sẽ tận sức hoàn thành việc xâm chiếm miền Nam Việt Nam cho Hồ (nghĩa là thực hiện việc bành trướng của thực dân đỏ), cố gắng “vĩ đại” hơn Giáp.

Ngoài mấy tên nói ở trên được là ủy viên chính thức của chính trị bộ mafia đỏ khóa 2, thì còn lại hai tên thân cận của Trường Chinh, được Hồ cho cái ghế dự khuyết chính trị bộ. Đó là:

1) Lê văn Lương – còn kiêm thường trực ban bí thư – phụ trách trưởng ban tổ chức trung ương;

2) Hoàng quốc Việt, trưởng ban dân vận trung ương.

Hồ cho hai tên này hai cái chức vụ đó để chuẩn bị cho âm mưu hạ chúng một cách “danh chính ngôn thuận”, vì Lê văn Lương sau sẽ chỉ đạo ngón đòn “chấn chỉnh tổ chức” của Hồ, và Hoàng quốc Việt phụ trách “thường trực ủy ban cải cách ruộng đất”.

Hồ chọn người để dùng là phải đảm bảo: một là hắn có thể tin được và hai là kẻ đó phải là người có thể hoàn thành nhiệm vụ mà Hồ giao phó. Đó là lý do không bao giờ Hồ nghĩ tới việc đặt Võ nguyên Giáp vào ghế tổng bí thư mafia đỏ như một số dư luận đã và đang tung ra.

Giờ ta thử tìm hiểu xem có phải Lê Duẩn và Lê đức Thọ đã cho Hồ “ra rìa trong quãng đời còn lại” như Lữ Phương đã viết không? Hay Hồ vẫn nghự trị cho đến tận lúc này là thằng con hoang – Nông đức Mạnh – của Hồ đang kế nghiệp Việt gian của Hồ.

Âm mưu của Hồ trong cải cách ruộng đất có thể nói là thành công mỹ mãn, ngay cả Trường Chinh và đồng bọn vẫn chưa biết đến thân phận của chúng sắp bị đem ra trả cho cái giá đã không chịu quy phục Hồ ngay từ ngày đầu gặp nhau ở biên giới Việt-Hoa. Đúng lúc đó, đại hội lần thứ 20 của đảng cộng sản Nga-xô họp. Tất nhiên, các đảng chư hầu đều phải có mặt. Đoàn mafia đỏ Việt Nam do Hồ – chủ tịch đảng – và Trường Chinh – tổng bí thư – đi phó hội. Ai ngờ ngày 25/2/1956 Krút-xốp đọc bản tố cáo “tệ sùng bái cá nhân Stalin” và nêu lên một số tội ác của Stalin. Hồ choáng váng mặt mày, vì Stalin là thần tượng của Hồ, là cái mẫu sống mà Hồ đang cố sao chép. Còn Trường Chinh, thì lại hồ hởi ra mặt, chẳng biết có phải vì tìm thấy chỗ dựa để tấn công Hồ qua cái gọi là “chống tệ sùng bái cá nhân” không, nhưng thái độ và nội dung mà Trường Chinh đã trả lời phỏng vấn của báo, đài ở Mát-xcơ-va chắc chắn làm Hồ lo ngại.

Về đến Hà-nội, mafia đỏ họp hội nghị trung ương từ 19 đến 24-4-1956 để nghe Trường Chinh phổ biến về nghị quyết 20 của Nga-xô. Khi còn ở Nga thì cả Hồ và Trường Chinh đều đã ký kết ủng hộ quan điểm của nghị quyết 20 của Nga-xô. Hồ phải ký là đương nhiên vì bao giờ Hồ cũng tuân lệnh mẫu quốc Nga-xô của hắn. Còn Trường Chinh, một tên giáo điều đặc sệt cho đến cả cái bí danh lẫn các “tác phẩm” của hắn, mà lại “hồ hởi” ký mà không hề có tý thắc mắc nào thì lại khác. Cho nên trong hội nghị phổ biến nghị quyết 20, bọn Lê Duẩn, Nguyễn chí Thanh, Hoàng văn Hoan, Trần quốc Hoàn, Xuân Thủy, Trần hữu Dực đã tranh cãi không tán thành, vì thế hội nghị thành “hội đồng chuột” của Lafontaine, nghĩa là không đi đến quyết định nào. Tỉnh táo điểm những bộ mặt chống nghị quyết 20 của Nga-xô thì sẽ thấy toàn là những kẻ được Hồ cất nhắc. Cho nên ta thử đặt câu hỏi: thực hiện nghị quyết 20 “tức chống sùng bái cá nhân” ở Việt Nam thì có lợi cho ai và có hại cho ai thì sẽ hiểu.

Dù có mù thì cũng thấy, nếu mafia đỏ Việt Nam thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô thì kẻ bị ăn đòn đưa đến bị hạ bệ là Hồ! Còn không thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô thì Trường Chinh mất cơ hội ngàn vàng để hạ bệ Hồ mà bước lên ngai chủ tịch đảng. Về bọn Lê Duẩn, Nguyễn chí Thanh, Lê đức Thọ, Trần quốc Hoàn, Xuân Thủy thì thi hành hay không thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô cũng chưa đụng gì đến cái ghế của chúng.

Vì thế ta có thể kết luận rằng chính Hồ là kẻ giật dây lũ Lê Duẩn trong vụ nghị quyết 20 này của Nga-xô. Bởi nếu không, với cương vị “chủ tịch đảng” và với nguyên tắc “dân chủ tập trung”, một mình Hồ cũng đủ quyền quyết định phải thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô, chưa kể đến Trường Chinh là “tổng bí thư” vẫn đang là một sức nặng đáng kể. Cho nên Hồ là kẻ chủ mưu bày ra trò tranh cãi này để vừa né được quả tạ “chống sùng bái cá nhân”, vừa được tiếng là tôn trọng ý kiến trung ương (mà chỉ một lần duy nhất trước đó Hồ thực thi là “tiếp tục hút thoải mái thuốc lá thơm Craven A”, khi còn trong chiến tranh với thực dân Pháp, đang có nhiều khó khăn, nghèo nàn).

Không có nhận xét nào: