Thứ Tư, 4 tháng 3, 2009

THỜI CỦA THÁNH THẦN - Tác giả: Hoàng Minh Tường - Chương 23

Từ ngày theo chủ nghĩa vô thần, đồng chí Chiến Thắng Lợi khinh bỉ 1 cách sâu sắc những kẻ mê tín dị đoan.

Rất nhiều lần chị Là muốn lập 1 bàn thờ để cúng gia tiên ông bà, nhưng Lợi đều gạt phắt. Trên nóc chiếc tủ đứng giữa nhà ông, từ năm 1969, mới có 1 bát hương và tấm ảnh bài vị thờ Hồ Chủ tịch. Đó là ứng xử hữu thần, sự tôn kính duy nhất và tuyệt đối từ khi Lợi làm người Sau này, có nhà điêu khắc tặng ông bức tượng bán thân Bác Hồ, ông đặt lên đó, thay cho bức ảnh bài vị.

Nhưng rồi bỗng 1 ngày, như 1 sự kiện lạ, ông Lợi gọi người mang đến 1 chiếc bàn thờ, loại đóng băng gỗ dán, sơn vecni bóng, có hai khung sắt hình thước thợ đóng cố định vào tường. Bàn thờ được đặt ở gian giữa tầng hai, cạnh phòng ngủ của hai vợ chồng. Đồ thờ cúng, tuy giản dị, nhưng cũng đủ lệ bộ 1 ban thờ truyền thống: Hai giá nến bằng đồng, khay đựng rượu và hoa quả, ba bát hương, bát hương đại ở giữa thờ gia tiên hai bát bên thờ bố mẹ ông Lợi. Ảnh ông Lý Phúc đội khăn xếp, áo the đen, ảnh bà cả Phúc như 1 cô gái thôn quê, mặc yếm vấn khăn, do thợ vẽ truyền thần phục chế lại, trông mờ ảo như nhưng bức ảnh đầu thế kỷ. Bà cả Phúc chết lúc Nguyễn Kỳ Khôi mới hai tuổi, nên bức truyền thần dù có giống hay không, ông Lợi cũng không rõ. Với ông Lý Phúc, thì đây là lần đầu tiên bài vị ông được người con trai cả lập ban thờ.

Điều gì đã khiến ông Lợi chuyển đổi đột ngột về nhận thức và hành xử tín ngưỡng?

Sự hoài nghi về chủ nghĩa vô thần?
Nỗi ân hận về sự vong bản, xa lánh cội nguồn?
Mối lo sợ trước sự trừng phạt của các thế lực siêu nhiên?

Có lẽ ông Lợi không nghĩ ngợi tới những phạm trù triết học vĩ mô cao siêu đến thế. Những sự cố dồn dập làm điên đảo cuộc sống, ảnh hưởng đến gia đình, sự nghiệp, quyền lợi, địa vị của ông mà nguyên nhân trực tiếp là từ những lá đơn tố cáo ông và bà Cam suốt 1 năm nay, buộc ông phải tìm mọi sự cứu giúp.

1 vị giáo sư thân thiết, nhà khoa học hàng đầu về nghiên cứu tiềm năng con người, đã nói với ông:

- Anh nên xem lại cung phúc trạch. Và nên có cách ứng xử với người âm, nhất là những người thân của mình. Quý anh lắm tôi mới khuyên vậy, xin anh đừng hiểu lầm.
Lợi không nói gì. Ông ngẫm nghĩ 1 tuần rồi tìm đến gặp nhà khoa học.
- Tôi nghe anh. Nhưng xin anh hiểu rằng, ở cương vị tôi, rất khó làm. Việc này. Tôi muốn nhờ anh gặp để nói với nhà tôi…
Nhà khoa học nhìn Lợi, tủm tỉm cười. Ông nhận lời sẽ gặp chị Là.
- Thời gian này, mối quan hệ giữa hai vợ chồng ông Lợi hết sức căng thẳng. Kẻ viết thư tố cáo nặc danh đã đi 1 nước cờ cao tay: Gửi trực tiếp đơn tố cáo cho Là.
1 người đàn bà thật thà như đếm, thuần phác và phúc hậu, tôn thờ chồng như Là làm sao chịu nổi cú sốc khi nhận được thông tin chồng mình có con ngoài giá thú? Và người đàn bà ấy giờ lại có danh vọng, địa vị, vẫn hằng ngày đưa nhau đi hội thảo, nghị quyết?

Không ầm ĩ, ngoa ngoắt, chẳng điên khùng, chanh chua, Là như xỉu đi vì quá đau đớn, hoảng loạn. Mắt sưng húp, chỉ lặng lẽ để tập đơn thư nặc danh trên bàn làm việc của Lợi rồi nằm liệt trên giường, không ăn uống hai ngày. Lả rất muốn chết. Nếu như ở trên quê Định Hoá, chị sẽ vào rừng kiếm lá ngón. Chi 1 nắm, vừa nhai vừa nuốt là xong. Nhưng cứ nghĩ thằng Chiến Thống Nhất, con Chiến Huyền Ly bơ vơ không có mẹ, chị lại bủn rủn, toát hết mồ hôi. Là chết đi thì khối kẻ nháy cẫng lên vì sung sướng. Có kẻ sẽ hợp thức hoá, ào về chiếm nhà, chiếm chồng, chiếm cả con của Là nữa. Có kẻ được thể lấy 1 lúc vài ba vợ. Đang chức quyền trong tay, đang nhà cao cửa rộng, khối gái mười tám, hai mươi ấy chứ. Tống khứ được gái sề này đi người ta mừng bằng đuổi được hủi ra khỏi cửa. Hoá ra cái ý nghĩ mình như là con ở trông cái cửa nhà, cơm nước hầu hạ ba bố con, như gái bao thỉnh thoảng ông chủ động cỡn lên lại đè ngửa ra dụi hùng hục… cấm có sai. Mấy chục năm sống với Lợi, chưa bao giờ Là được 1 lời âu yếm, 1 tí chút quà tặng, 1 tâm sự chia sẻ. Hai vợ chồng như hai thế giới cách biệt. Lợi cậy chữ nghĩa, chức quyền, coi khinh Là ra mặt. Rõ nhất là những khi có khách đến chơi hoặc làm việc. Là vừa chuẩn bị nước mời khách, vừa nấn ná lại chào hỏi 1 câu xã giao, Lợi đã đuổi quầy quậy: "Thôi, bà ra ngoài kia để chúng tôi làm việc". Buồn nhất là những khi bố mẹ trên quê ốm đau, nhà có công việc cưới xin giỗ chạp. Mang tiếng chồng từng ăn dầm ở dề vùng ATK, được dân bản cưu mang đùm bọc, mà về HN 1 cái là quên phắt, cấm có đoái hoài. Người ta quyền cao chức trọng, dễ quên và coi khinh người nghèo. Mỗi lần đưa các con về quê, Là tủi thân lắm, nhưng chị luôn mua quà dấm dúi biếu bố mẹ, xóm bản, nói dối là "quà của nhà con gửi biếu", "nhà con bận việc lắm, sẽ về thăm dịp khác". Chao ôi, hay Là chỉ đáng trò tiêu khiển mỗi khi Lợi khát thèm? Chỉ những lúc ấy Lợi mới dẻo mỏ, nịnh nọt, thậm chí tâng bốc Là lên mây xanh. Lợi mơn trớn, ngắm vuốt, hôn hít khắp thân thể Là, rồi xuýt xoa, rên rỉ: "Em hơn cả tiên nữ giáng thế. Em là giai nhân của núi rừng". Nhưng cuộc sống đâu phải chỉ có trò ấy? Chuyện giường chiếu rồi cũng nhàm chán theo năm tháng, tuổi tác. Mà nỗi khát thèm 1 tình yêu thương, sẻ chia, nương tựa thì bao giờ Là cũng khắc khoải, cồn cào.

Cho nên, những bí mật của Lợi bị phơi bày, càng khiến Là tuyệt vọng khi nhận rạ con người thật của chồng. Chị quyết định không việc gì phải chết. Chị phải sống để nuôi dạy các con nên người. Chị sẽ lật ngược thế cờ, hoặc là Lợi phải khuất phục chị, hoặc là chị sẽ ra toà ly hôn. Là tìm gặp đồng chí Phó ban Tổ chức, 1 người thân cận của Lợi và gia đình.

- Nhà em đã đến nước này… Em muốn xin cấp trên 1 lời khuyên?
Đồng chí Phó ban sững người khi thấy Là tiều tuỵ đến khó nhận ra. Người đàn bà béo tròn mà đồng chí mới gặp tháng trước nay đã tọp đi như vừa qua trận ốm thương hàn.
- Chúng tôi cũng đang đau đầu về vụ này đây. Tuần trước đài địch đã đưa tin. Các thế lực thù địch đang nhân cơ hội hạ thấp uy tín, gây chia rẽ nội bộ ta. Tôi chẳng thể khuyên đồng chí điều gì lúc này, ngoài sự nhắc nhở của tổ chức về ý thức và trách nhiệm của người chiến sĩ tiên phong. Đồng chí được công nhận chính thức năm ngoái phải không?
- Dạ vâng.
- Giờ lại là cửa hàng trưởng?
- Dạ vâng.
- Tức là ý thức và trách nhiệm trước tổ chức càng phải cao, đúng không?
- Dạ vâng.
- Thế nên tôi không phải nói nhiều. Đồng chí hãy tự hiểu. Chuyện của hai đồng chí Chiến Thắng Lợi và Đào Thị Cam, như đồng chí đã biết. Họ đều đã có bản tường trình với tổ chức. Cháu Lê Kỳ Chu chính là con chung của họ… Kìa, đồng chí đừng khóc, bình tĩnh lại đi. Đó là hậu quả của chiến tranh, là sự hy sinh hạnh phúc cá nhân… Nếu không thất lạc nhau rất có thể đồng chí không là vợ của đồng chí Lợi, mà là ấy thế, đấy là duy vật lịch sử. Vấn đề bây giờ là, đồng chí phải bình tĩnh để thu xếp mọi việc. Chuyện đã rồi, không có cách gì thay đổi được, thì ta nên chấp nhận. Đấy là quy luật của duy vật biện chứng. Phải nghĩ đến danh dự và sự nghiệp của chồng, đến hạnh phúc gia đình, tương lai con cái. Xấu chàng hổ ai? Dân gian đã nói thế. Lại có câu: "Cá vào ao ta, ta được"…
- Nhưng mà, tại sao anh Lợi phải giấu giếm?…
- Chúng tôi đã và sẽ kiểm điểm hai đồng chí ấy về thái độ chưa thành khẩn trước tổ chức. Lẽ ra đồng chí Lợi phải báo cáo hết sự thật với tổ chức từ trước khi cưới đồng chí Là. Và đồng chí Cam cũng không nên lạm dụng danh nghĩa của đồng chí Lê Thuyết… Nhưng suy cho cùng đó cũng là duy vật lịch sử, do hoàn cảnh chiến tranh… Chúng tôi không bao che, không xuê xoa 1 chiều. Nhưng nói để đồng chí hiểu: Cả hai đồng chí Lợi và Cam đều là cán bộ chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý. Những thế lực thù địch đang muốn chĩa mũi nhọn bôi xấu, hạ uy tín hai đồng chí ấy. Ứng xử với hai trường hợp này phải hết sức thận trọng, bởi vì đây là nội dung chủ yêu của công tác bảo vệ nội bộ. 1 tổ chức trong sạch vững mạnh không thể có 1 cá nhân mắc sai lầm khuyết điểm… Con sâu không thể làm rầu nồi canh. Mà canh đây là canh riêu cua, canh dưa chua cá trê nổi váng, dậy mùi nức mũi. Tôi nhắc lại, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo không có nghĩa là bao che, dung túng, mà là giữ gìn uy tín, danh dự của cả hệ thống tổ chức… Tôi mong, và giao nhiệm vụ, với tư cách 1 cán bộ nòng cốt, đồng chí hãy bảo vệ sự trong sạch của tổ chức như giữ gìn con ngươi của mắt mình…

Sau những lời chỉ thị của đồng chí Phó ban, Là như con chiên bị rút phép thông công. Chẳng còn cách gì cựa quậy, chống phá Lợi. Đã là người của tổ chức là phải biết sống chết bảo vệ nhau. Là đã là đồng chí của Lợi rồi, lại được cấp trên chỉ thị, không được phép phản bội Lợi. Huống chi, Lợi lại là nhân vật quan trọng của tổ chức, dù trong hoàn cảnh nào cũng được tổ chức bảo vệ đến cùng. Cứ nhìn chú Vỹ, gương tày liếp đó, chỉ cần chớm có biểu hiện chống đối tổ chức là ngót chục năm tù như chơi. Anh làm lãnh đạo mà cũng không cứu được em. Bao công lao với kháng chiến đều thành công cốc. Đi tù về thân bại danh liệt. Ngày trước thông minh hoạt bát là thế mà nay như gà phải cáo, chẳng còn ra hồn người.

Là định cáo từ ra về, nhưng nghĩ, chẳng lẽ chưa ra trận đã vội đầu hàng, bèn lấy tờ đơn xin ly hôn mới viết tối qua, trình đồng chí Phó ban:
- Nhưng mà em khổ lắm. Em với anh Lợi không thể sống với nhau được. Em báo cáo với Ban và xin gửi lá đơn này.

***

Lá đơn xin ly dị của Là, cũng như hầu hết những đơn thư khiếu tố Chiến Thắng Lợi, chỉ ngày hôm sau đã nằm trong cặp của Lợi.

Và, như sự tác động dây chuyền, vài hôm sau nữa, vị giáo sư nghiên cứu tiềm năng con người gặp chị Là. Ông khuyên Là nên đến điện cô Hằng.

Cuộc gặp gỡ với người âm, như chiếc chìa khoá, giải toả mọi ghen tuông thù hận, trả lại con người vị tha, nhân hậu, bao dung như bản chất vốn có của Là. Ông Lý Phúc như 1 quan toà hiện về, nhìn thấu ngõ ngách mấy chục năm trước, nhìn xuyên suốt những năm sau. Ông bảo, nếu Nguyễn Kỳ Khôi lấy Cam thì làm sao ông có hai đứa cháu nội là thằng Chiến Thống Nhất và con Chiến Huyền Ly? Ông bảo, dòng họ Nguyễn Kỳ đã bao năm li tán, nay là lúc phải tụ hợp, rằng vong linh ông sẽ được siêu thoát nếu ông được nhìn thấy anh em, vợ chồng, con cháu hoà thuận, quây quần…
Là đã kể hết với Lợi câu chuyện chị về quê ra mộ thắp hương, xin hòn đất trên mộ để thỉnh ông Lý Phúc đến điện cô Hằng thế nào, ông Lý Phúc hiện về và nói ra sao? Bộ áo giáp chủ nghĩa vô thần của Chiến Thắng Lợi bị những thông tin của Là làm thủng 1 mảng lớn. Và cơn gió đen duy tâm đang luồn lách trườn qua lỗ thủng ấy, làm ông lạnh buốt xương sống, chân tay nổi da gà. Ông không hề nói với vị giáo sư khoa học tiềm năng con người về ông Lý Phúc, thầy ông, và cái chết của thầy ông. Ông cũng chưa từng gặp cô Hằng. Hay là Là bịa chuyện để lấy cớ tha thứ cho ông?
Mấy ngày liền ông Lợi sống trong tâm trạng hoài nghi nửa tin nửa ngờ. Thầy đã về và đang phù giúp ông giải cái đại hạn mà ông đang mắc phải? Hẳn là như vậy rồi. Như có phép mầu, chỉ 1 tuần qua, từ khi ông nghe lời vị giáo sư tâm linh, tình hình đã xoay chuyển từng ngày. Hôm qua đồng chí Tư Vuông gọi ông lên và bảo: "Trên sắp có kết luận về cậu. Theo mình là khả quan. Nếu ý kiến của mình được xem xét thì đợt này cấp trên sẽ phê duyệt nhân sự cả trường hợp tay Châu Hà. Hắn mà làm Tổng biên tập báo Văn Chương là mình yên tâm". Lợi như người sống trên mây. Nhiều khi đi như chân không chạm tới đất. Chủ nghĩa vô thần của ông lung lay tận gốc rễ. Ông lặng lẽ thuê người dựng bàn thờ gia tiên, bố mẹ. Ông bù đắp lại cho Là những thua thiệt mất mát, sự thờ ơ rẻ rúng trong mấy chục năm qua. Ông bàn với vợ những trù tính và cuộc sám hối trong ngày giỗ ông Lý Phúc sắp tới.

Lạ thay, bàn thờ vừa làm xong, thì có điện thoại của bà Cam:

- Chín giờ sáng chủ nhật này ông đến chỗ tôi nhé. Có chuyện rất cần tôi muốn bàn với ông. Nhất định phải đến đấy.

Không phải là 1 cuộc trao đổi bình thường, mà là mệnh lệnh. Ông Lợi hiểu rõ tầm quan trọng của cuộc hẹn gặp này.

Đúng giờ hẹn, bà Cam đã đứng chờ ông ở cửa. Họ gặp nhau như hai tội phạm đã từng có lúc chung lưng buôn thuốc phiện lậu, nay cùng bị phát giác.

- Tôi đã báo cáo hết với tổ chức rồi và sẵn sàng chịu hình thức kỷ luật cao nhất.
- Tôi cũng vậy. Trong bốn điểm đơn thư nặc danh tố cáo, tôi đã tường trình rõ điểm ba và điểm bốn. Chúng tôi thực sự yêu nhau và đến với nhau 1 cách chân thành, trong sáng. Nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh, chúng tôi đành phải hy sinh hạnh phúc cá nhân vì sự nghiệp chung. Chúng tôi nghĩ đây là việc riêng cá nhân và cũng là việc xảy ra trong quá khứ, nên nay tổ chức yêu cầu thì xin thành khẩn trình bày…
- Như vậy là thấu tình đạt lý rồi. Còn chuyện thằng Chu sang Liên Xô học tên lửa?
- Chuyện này hoàn toàn do điều động của tổ chức. Tôi đã mạnh dạn trình bày như vậy vì biết chắc thượng tá Võ Khang đã hy sinh… Tôi nói, thằng cháu Chu hồi ấy luôn là học sinh phổ thông xuất sắc, vì thế Cục Quân lực thấy cần phải đưa cháu đi đào tạo tiếp…
- Thôi được. Anh thành khẩn đến mức như thế mà tổ chức vẫn không tin dùng thì đó là số phận.
- Số phận ư? - ông Lợi bỗng nhìn bà Cam bằng ánh mắt của 1 người đã bắt đầu ngộ ra rằng cuộc đòi còn có những điều bí hiểm mà ta không cắt nghĩa được.
- Bây giờ đến 1 việc tối quan trọng mà tôi muốn báo cho anh biết, nhưng không hiểu trong hoàn cảnh này anh đã chuẩn bị tinh thần để đón nhận chưa?
Bốn mắt họ gặp nhau.

Kỷ niệm ba ngày thần tiên ở Phương Đình bỗng hiện về. Lợi hình dung rất rõ 1 anh chàng Nguyễn Kỳ Khôi cuồng nhiệt và hăm hở lúc nào cũng bị đôi mất đen đắm đuối dìm cho đến chết. Đôi mắt đen thẳm ngày xưa, giờ đọng đầy nước.

- Cam đã nói với con?
Bà Cam khẽ gật đầu.
- Chu vừa về tận quê đồng chí Lê Thuyết. Và tự nó đã tìm ra sự thật.
- Vậy thì hãy cho tôi gặp con. Đâu? Nó đâu rồi?

Như có phép màu, có tiếng gõ cửa.
Bà Cam chưa kịp nói hết câu: "Chu ơi, bố của con đấy", Chu đã dang rộng vòng tay, ào vào, ôm chầm lấy ông Lợi.

Hai bố con đứng ôm nhau. Hai người đàn ông, người tóc muối tiêu, người tóc còn đen ánh, giống nhau như cùng khuôn đúc. Họ ôm nhau và khóc.

Bà Cam cười mà miệng méo xệch, nước mắt chảy chan hoà. Hơn ba mươi năm tủi nhục, giấu giếm, vụng trộm, thậm chí với con trai mà phải giả dối, thớ lợ…, giờ mới là lúc bà hoàn toàn mãn nguyện khi thấy cảnh châu về Hợp Phố, bố con đã nhận ra nhau.

Chu kéo ông Lợi nhích lên và vòng tay ôm bà Cam lại gần.

- Con đã có cả bố và mẹ. Con sẽ hạnh phúc vô cùng nếu bố mẹ sống bên nhau…
Bà Cam gỡ tay Chu ra.
- Đó là điều không tưởng, vì số phận không cho mẹ nhiều đến thế. Bây giờ, mẹ chỉ còn 1 mong muốn cuối cùng là làm sao giúp bố con qua khỏi cung đại hạn này.
Cả ông Lợi và Chu cùng ngồi xuống ghế, nhìn bà Cam chờ đợi.
- Đây là quyết định của tôi sau rất nhiều đêm suy nghĩ, dằn vặt - Bà Cam đặt lên bàn những trang giấy do tự tay mình viết. Đơn xin nghỉ hưu. Đơn xin nghỉ sinh hoạt…
- Đừng, Cam, tôi xin em - Lợi vồ lấy những tờ giấy, như không tin ở mắt mình - Sao em lại làm thế? Hãy suy nghĩ lại!
Bà Cam nhìn vào xa xăm, như nói với 1 ai đó:
- Những lá đơn này là để tôi nhận hết tội lỗi về phần mình. Đồng chí Chiến Thắng Lợi vô tội trong việc này. Vào những năm 1947, 1948 ấy, sau khi đồng chí Lê Thuyết hy sinh, tôi rất hoang mang, bế tắc. Tôi đã lừa đồng chí Nguyễn Kỳ Khôi để xin 1 đứa con… Đó là điểm tựa tinh thần để an ủi tôi vững tin cống hiến lâu dài cho CM… Tôi không có ý định lấy đồng chí Khôi, vì thế đã chủ động cắt đứt mối liên lạc Nếu những việc làm của tôi là lừa dối tổ chức, không trung thực, thành khẩn, thì tôi xin sẵn sàng chịu kỷ luật cao nhất, tôi xin được khai trừ khỏi tổ chức, xin tình nguyện về hưu… để cho tổ chức được trong sạch vững mạnh…
Ông Lợi cắt ngang:
- Cam không được nộp những lá đơn này lên tổ chức. Cam vẫn còn tuổi công tác và đang giữ những trọng trách… Cam phải nhớ tới lời thề thiêng liêng…
Bà Cam lắc đầu, miệng thoáng cười khinh bạc.
- Với lại đã đến lúc con người ta nghĩ khác rồi… Ai cũng rất cần 1 khoảng trời tự do… Tôi đã hy sinh quá nhiều cái riêng, cái cá nhân cho CM. Nay là lúc tôi phải sống riêng cho mình. Tham quyền cố vị làm gì, khi mà 1 chút riêng tư cá nhân cũng bị phanh phui, quy kết, cũng phải giải trình, báo cáo?

Đó là sự đổ vỡ lớn nhất trong đời bà Cam.

Ngày hôm sau, tự tay bà mang đơn lên nộp tổ chức.
Và đúng như bà Cam phán đoán, hành động của bà như Lê Lai liều mình cứu chúa. Ông Lợi không những được gỡ tội mà còn được đề bạt giữ trọng trách Phó ban Cải tạo Công thương.
Cho nên, đám giỗ ông Lý Phúc sẽ mang rất nhiều ý nghĩa.

***

Ngôi biệt thự rợp bóng hoàng lan ở góc phố Lý Thường Kiệt, kể từ ngày vợ chồng con cái ông Lợi dọn đến ở, hôm nay, lần đầu tiên, mới có cuộc hội ngộ đông vui như thế.

Ngay từ sáng sớm, ba mẹ con Khiêm, ba mẹ con Là đã tíu tít chợ búa, chuẩn bị làm cỗ. Sự xuất hiện của mẹ con Khiêm, khiến đám giỗ có ngay không khí tưng bừng, trang trọng của 1 ngày lễ hội. Hai mẹ con, như hai chị em, rực rỡ và đài các, quý phái. Tuyệt vời nhất là Trinh Mai. Dáng thanh cao, nước da trắng mịn, mắt đen như nhung, môi tươi như đoá trà. Cô đẹp rực rỡ, như bông hồng vàng trong truyện của Pautôpxki. Sự xuất hiện của cô, ngay từ đầu đã làm mê mẩn cô bé Chiên Huyền Ly, đến nỗi cô bé cứ ngơ ngẩn đi quanh mà nhìn ngắm, mà trầm trồ:

- Chị Mai, chị giống như Bạch Tuyết trong truyện "Nàng Bạch Tuyết và bẩy chú lùn".
- Ê, chị Ly, lộn xộn. Chị phải gọi Mai là em, rõ chưa? - Mai thơm vào bên má phính của cô bé, cười thích thú, chỉ ông anh họ - Thế còn anh Chiến Thống Nhất, trông có giống anh chàng Pie Bêdukhốp trong tiểu thuyết "Chiến tranh và Hoà bình" của văn hào Lép Tônxtôi không?
- Giống quá - Phong vỗ tay, reo to - Pie Bêdukhốp.
Cả Phong và Ly cùng nhìn Nhất và ôm bụng cười ngặt nghẽo. Đúng là anh chàng ngố Bêdukhốp, mà chúng đã gặp trong phim. Chiến Thống Nhất giờ đã là chàng sinh viên năm cuối trường Đại học Giao thông, cao to, mặt béo bệu, kính cận bốn điệp, giọng ồ ồ như vịt đực. Nhìn Nhất lóng ngóng gọt khoai tây, su hào, chẳng ai nhịn được cười.
- Chị Mai này - Ly vẫn không thể quen gọi em xưng chị vì ngượng lắm - Mẹ Là bảo Ly với Mai là chị em con chú con bác ruột, thế sao họ Mai là Nguyễn, còn họ Ly lại là Chiến?
Mai ngẩn người, 1 lúc mới nghĩ ra cách giảng giải:
- Vì bố chị Ly là quan, còn bố em là phó thường dân. Họ của quan thì phải khác dân. Ví như đức ông Lý Thường Kiệt, được đặt tên đường phố mà chị Ly đang ở đây này. Ông vốn có tên cha mẹ đặt cho là Ngô Tuấn, quê ở ven Hồ Tây. Vì ông quá tài giỏi giúp vua Lý đánh giặc, nên được ban họ vua, được đổi tên là Lý Thường Kiệt.
- Ly ứ thích họ Chiến. 1 mình 1 họ chán lắm. Ly chỉ thích họ Nguyễn Kỳ. Này, chị Mai này, mẹ Là bảo Ly còn có 1 anh trai, trên cả anh Nhất nữa cơ… - Ly ghé tai Mai thì thào chuyện gì đó có vẻ cực kỳ bí mật…
- Em cũng đang chờ đợi… - Mai gật đầu lia lịa ra vẻ rất thích thú khi sắp được chứng kiến 1 sự kiện trọng đại - Chị Ly này, họ Nguyễn Kỳ nhà mình có nhiều chuyện rất chỉ là… kỳ. Ông nội chúng mình ngộ ghê cơ. Ai lại đặt tên con là Nguyễn Kỳ Cục - Đang nói Mai bỗng ôm miệng nhìn ra cổng.
1 người đàn ông. đội mũ cối, vai đeo bị gạo, tay xách chiếc lồng nhốt hai con gà trống, đang tập tễnh đi vào.
- Chết em rồi. Chú Cục thiêng thế. Vừa nhắc đến đã xuất hiện.
- Ối giời! Tôi đã bảo chú ra không thôi kia mà - Bà Là trách móc 1 cách thân tình - Khổ. Nhìn tủ lạnh Saratôp nhà tôi trong kia xem có thiếu thứ gì không? Bày vẽ gạo đỗ gà qué ra cho nó khổ cái thân…
Khiêm từ trong bếp ló ra, gương mặt đỏ hồng vì lửa.
- Chào ông phó chủ nhiệm hợp tác. Gà chăn nuôi hay là mua ngoài chợ Đồng Xuân đấy? Kìa, hai chị em con Mai, con Ly đâu, ra xách gà cho chú đi.
- Thế thím Nhi với các cháu đâu? Cái Ruộng, cái đất, cái Hợp thằng Tác đâu? Sao không cho chúng nó ra hết cả ngoài này? - Là nhìn tuốt ra ngoài cổng - Nhà tôi đã dặn chú giỗ thầy năm nay là cuộc họp mặt đại gia đình, phải cho cả nhà ra ngoài này kia mà.
- Nhà em phải ở nhà chuẩn bị mai em về cúng giỗ thầy, chứ kéo ra hết ngoài này đâu có được. Giỗ ngoài bác cả cũng chỉ là giỗ vọng. Bà nhắn về, bảo thế. Bà dặn phải cúng giỗ thầy ở nhà thờ đúng ngày mai. Trong SG trưa mai bà với bác Vọng cũng giỗ vọng thầy. Nhà em hôm nay phải đi xay yến nếp cái hoa vàng để mai đồ xôi. Các cháu bác đứa đi cắm trại với nhà trường, đứa ra đồng trông đàn vịt với cô Hậu. Từ ngày bà vào SG với bác Vọng, bí người lắm.
- Các cụ đã bảo rồi. 1 mẹ già bằng ba người ở! Bà vào trong kia, cũng là đi ở trông nhà cho chú Vọng.
- Vợ chồng em đang tính, phải đón bà em về.
- Thôi. Hoa thơm mỗi người ngửi 1 tí - Là có vẻ chao chát - Bà về cũng không đến lượt chú thím. Vợ chồng tôi là con trưởng, cũng phải để cho chúng tôi được báo hiếu mẹ 1 chút chứ…
- Vâng, thì sau anh Vọng sẽ là bác cả rồi bác hai. Nhưng em cam đoan là bà chỉ thích ở với vợ chồng em… Nào, có việc gì em phụ 1 tay…
- Việc gì? Cừ để đàn bà con gái chúng tôi. Chú rửa mặt mũi chân tay rồi lên trên nhà với anh. Có cả chú Vỹ ở trên ấy. Anh em tha hồ mà hàn huyên với nhau…
Trên nhà, tức là tầng gác hai, nơi sẽ diễn ra lễ cúng giỗ ông Lý Phúc, anh em ông Lợi, ông Vỹ, như hai cái bóng, mỗi người 1 góc nhà.

Suốt từ lúc đến nhà anh trai, ông Vỹ hầu như chỉ im lặng. Ngôi nhà sang trọng này quá lạ lẫm đối với ông. Đầu tiên là ông đi vòng quanh, ngắm nghía, sờ mó những đồ vật, ngó nghiêng phòng ngủ, toa lét, hành lang, y như 1 bác nông dân lần đầu ra tỉnh. Quan CM có khác. Khác hẳn người thường. Riêng 1 chiếc tủ cổ lồng kính trưng bày những huy chương, huân chương, bằng khen, những đồ lưu niệm của các nước Trung Quốc, Liên Xô, Ba Lan, Đông Đức, Lào, Triều Tiên, Cuba… đủ thấy chủ nhân đã đặt chân lên hầu khắp các vùng trái đất. Điểm dừng sau cùng là bộ bàn thờ. Ông đứng ngắm như nhà đạo diễn tổng duyệt bài trí sân khấu, rồi sắp xếp điều chỉnh lại từng đồ thờ cúng. Tiếp đó, ông lấy từ chiếc làn nhựa ra nải chuối, chai rượu chanh, ba thẻ hương, mà Khiêm sắm từ hôm qua trịnh trọng đặt lên giữa ban thờ. Khói hương vấn vít trên mái tóc như sương, ông Vỹ đứng lặng phắc như nhập thiền trước bài vị người cha quá cố gần tiếng đồng hồ.

Vóc dáng tiều tuỵ và vẻ mặt vô cảm, nhẫn nhục, cùng mọi động thái có vẻ như lẩn thẩn của em trai, đều không qua con mắt bao quát, dò xét của ông Lợi. Ông bỗng động làng trắc ẩn và thấy như chính mình có lỗi. Đúng là bẩy năm trong trại cải tạo đã biến Vỹ trở thành 1 người khác. Đầu óc, sức khoẻ có vấn đề. Giờ thì Vỹ chẳng còn gì nguy hiểm đến an ninh quốc gia sự an toàn của thể chế, mà bản thân Vỹ cũng chẳng còn có ích gì cho mình và cho gia đình. Đó là nguy kịch mà chính ông Lợi, anh em máu mủ ruột rà sẽ phải gánh chịu. Ông trách mình đã không kịp thời can thiệp. Mải mê với địa vị, quyền lợi của mình, ông đã thờ ơ, đã nhẫn tâm… Rồi Vỹ sẽ sống ra sao, nếu bệnh tật và những áp lực tinh thần đã tích tụ mấy năm qua bùng phát? Vợ chồng con cái Vỹ sẽ sống thế nào, khi tất cả thu nhập đều chỉ trông cậy vào đồng lương và việc dạy thêm của Khiêm? Đã gần hết năm rồi mà mọi chế độ tiêu chuẩn của Vỹ vẫn chưa giải quyết được. Mấy chục đồng bạc 1 tháng hoặc 1 chân cán sự quèn ở 1 cơ quan, mà cứ như quả bóng đá đi đá lại bao nhiêu cửa. Người ta vẫn cứ muốn hành hạ Vỹ, lấy miếng cơm manh áo, sự mưu sinh tầm thường để làm nhục kẻ sỹ. Giá không vướng những đơn thư yếu tố thì Lợi sẽ can thiệp cho Vỹ. Nhưng ông đang trong tình trạng há miệng mắc quai, ốc còn không mang nổi mình ốc. Đành lại đế Châu Hà và đám bạn bè văn chương giúp Vỹ.

1 câu hỏi như những nhát búa cứ nhói lên trong đầu Lợi: người giúp Vỹ ra khỏi K27, rồi đang đôn đáo lo quyền lợi, đời ông cho Vỹ, sao không phải là ông, mà là nhà văn Châu Hà?

Không phải lúc này, ở đây, mà là suốt mấy tháng nay, kể tư khi Vỹ ra tù, câu hỏi này đã gõ vào đầu ông nhức buốt. Bây giờ, đối diện với Vỹ, câu hỏi càng nhức buốt. Nó khiến ông không dám dàn mặt với em trai, không dám nhìn thẳng vào mắt Vỹ. Bây giờ thì ông đã thành phạm nhân và Vỹ thành quản giáo. Vỹ im lặng vì bệnh trầm cảm, bệnh Alzheimer, hay Vỹ đang khinh bỉ?
Lợi chạy xuống nhà bảo vợ đưa chìa khoá tủ, rồi tự tay ông lấy hai lạng cao hổ cốt, 1 hộp nhân sâm Cao Ly dúi vào tay Vỹ.

- Chú cầm lấy mấy thứ này về bồi dưỡng. sức khoẻ. Tôi thấy chú yếu lắm.
- Em xin bác - Vỹ ngửa lòng bàn tay, nhìn chằm chằm vào ông anh trai. Tự nhiên, ông bỗng thấy sao chiếc mũi của ông anh trai lại dài ra và khoằm lại như mỏ quạ. Rồi bộ mặt ông Lợi bỗng biến thành bộ mặt ông mũi khoằm đeo băng đỏ trong đồn công an ngày nào. Vỹ hốt hoảng đưa lại lạng cao và hộp sâm cho ông Lợi.
- Coi như em đã nhận. Em gửi bác giữ hộ.
- Kìa chú. Chú cầm về để bồi dưỡng…
Vỹ quay lại, đặt mọi thứ lên ban thờ. Rồi lại đang lầm rầm khấn vái.

Rất may, sự xuất hiện của Cục đã phá vỡ không khí nặng nề. Lợi xoắn lấy Cục hói thăm về tình hình trong quê, về mùa màng, khoán sản… Còn Vỹ thì chỉ ngồi nhìn Cục đầy âu yếm, như cậu học trò Vỹ thường ngắm nhìn hai đứa em Cục và Vện chơi bi, chơi đáo ngày xưa. Thấy Cục mở gói thuốc lào, Vỹ liền xăng xái đi tìm chiếc điếu cày. Tìm mãi không thấy, tự tay Vỹ kiếm giấy báo vấn cho Cục 1 chiếc điếu thật dài. Cỗ cúng đã xong và được "anh chàng Bêdukhốp", với sự trợ giúp của Mai, Phong và Ly, lễ mễ bưng lên, đặt trên cái bàn kê dưới ban thờ. 1 con gà trống thiến, mỏ vểnh cao, ngậm bông hồng, luộc vàng ươm, nằm bên đĩa xôi đỗ lớn choán gần hết chiếc mâm đồng. Tiếp đó là 1 mâm cỗ cúng nghi ngút khói với các đĩa, các bát giò nem ninh mọc, đặc chất ẩm thực HN mà chỉ có tài nữ công gia chánh điêu luyện mới làm nổi. Đây là những nghi thức, thủ tục rất trang trọng do chính cô giáo Khiêm đạo diễn. Đến lượt ông Lợi cũng trịnh trọng không kém. Ông thay bộ đồ mới, khoác áo đại cán, thắp đủ ba tuần hương, rót rượu rồi lầm rầm khấn vái. Lần đầu tiên trong đời, không phải do 1 ai đó, 1 tổ chức nào đó tác động, chỉ đạo, tự ông làm 1 cách tự nguyện những công việc trang nghiêm, thành kính và thiêng liêng như thế.

Bà Là từ dưới nhà đi lên, dáng bồn chồn hết nhìn đồng hồ lại ngóng ra cổng. Đợi ông Lợi cúng xong, bà lo lắng đến bên chồng.
- Anh có hẹn đúng ngày giờ không? Sao giờ này vẫn chưa thấy đến? Nghe nói tướng Quảng Lạc ở mặt trận Cămpuchia chưa về?

Ông Lợi còn sốt ruột hơn cả vợ. Lòng ông như lửa đốt. Đúng là ông có nghe tin tướng Quảng Lạc vừa từ mặt trận biên giới phía Bắc bay sang mặt trận Tây Nam. Nhưng nhân vật chính mà ông chờ đợi hôm nay đâu có phụ thuộc gì vào ông tướng ấy? Lê Kỳ Chu, con trai cả của ông, cháu đích tôn của người đang ngồi trên ban thờ hương khói nghi ngút kia, mới là trung tâm của ngày trọng đại này. Đám giỗ mà ông kỳ công sắp đặt, chỉ dành riêng cho những người ruột thịt, chính là dịp để ông kính cáo với tổ tiên, với thầy u ông, cho vợ chồng Lê Kỳ Chu và con trai về nhận cha, nhận họ. Mọi kế hoạch đã được ông trù tính kỹ. Ông đã bàn bạc cả với hai vợ chồng nó.

Người ngoại tộc duy nhất được ông mời hôm nay là cụ Ba Yên và vợ chồng tướng Quảng Lạc, với danh nghĩa thông gia. Cụ Ba Yên xin kiếu vì sức khoẻ yếu. Ông cũng đã bàn với vợ về trường hợp bà Cam. Là tỏ ra rộng lượng, cứ mời. Nhưng ông gạt đi. Tất nhiên, nếu mời bà Cam cũng không đến.

Có tiếng còi xe ô tô ngoài cổng. Chiếc Uoat đầy bụi đường trường vừa dừng, tướng Quảng Lạc, trong bộ quân phục còn nguyên nếp gấp, mũ mềm gắn sao, từ trên xe bước xuống. Theo sau vị tướng lừng danh là cô giáo Linh, con gái ông, cùng Lê Kỳ Chu, con rể, và thằng cháu ngoại.
Cả nhà cùng ào ra cổng đón khách. Ai cũng dồn mắt vào chàng trai cao lớn mặc bộ complê như chú rể đi cạnh vợ và con trai. Nhác trông đã biết ngay là con trai ông Lợi, không lẫn vào đâu được. Người ta có thể nghi ngờ Chiến Thống Nhất, chứ chẳng ai nghi ngờ Lê Kỳ Chu. Là và Khiêm cùng dang tay ra ôm thằng cháu đích tôn.

Thằng bé cười khanh khách khi bà Là cứ day mũi vào chim nó.
Cô bé Ly ghé tai Mai:
- Giống cực kỳ. Chỉ có bố Kỳ Khôi mới sinh nổi con Kỳ Chu.
Rồi cô bé chạy vào trong nhà ôm 1 bó hoa lớn đã chuẩn bị sẵn, bẽn lẽn đi đến trước vợ chồng anh trai.
- Xin lỗi cả nhà, vì phải chờ đợi lâu - Tướng Quảng Lạc hồ hởi bắt tay từng người, với tác phong dứt khoát của 1 quân nhân - Lẽ ra vợ chồng cháu Chu, Linh và thằng cu Ti phải đến sớm, nhưng các cháu cứ nấn ná chờ tôi về. Vừa xuống sân bay, tôi chỉ kịp qua nhà đón các cháu rồi đến đây ngay.
Khi bắt tay Vỹ, ông dừng hơi lâu.
- Tôi đọc và nghe nói về ông đã lâu, nhưng hôm nay mới có hân hạnh gặp. Sẽ hẹn đến thăm cả hai ông bà.

Không khí chiến trường, tình hình thời cuộc theo chân ông tướng ùa vào phòng khách. Người háo hức chờ đợi nhất là Cục. Thằng Cách, con trai thứ ba của ông đang ở chiến trường Campuchia. Cục tin rằng vừa rồi thể nào ông tướng cũng gặp thằng Cách ở bên đó.

- Phải xác định cháu nó còn phải ở đất bạn lâu dài - ông tướng nói - Tình hình phức tạp lắm. Tàn quân Pônpốt rút vào rừng đánh du kích. Nó dùng sở trường của ta để đánh lại ta mới gay chứ. Vật nhau với thằng Pônpốt keo này mất nhiều thời gian, xương máu lắm đây…
- Nghe đài BBC nói, ta bị thế giới phản đối về vụ Campuchia này lắm - ông Cục nói.
- Thế mới gay. Mình sa lầy nhưng vẫn không thể rút chân ra được - ông tướng thở dài. Không hiểu ông thở dài vì sự không rút chân ra được hay vì ông thấy mình không còn nhiều thời gian…
Đúng lúc ấy thì ông tướng bỗng giật mình, khi con gái ghé tai nói nhỏ điều gì. Ông kéo tay Cục và Vỹ cùng lên nhà trên. Trước ban thờ, ông Lợi và Chu, đứng cạnh nhau, giống nhau như hai giọt nước. Cạnh họ là hai mẹ con cô giáo Linh.

Giọng ông Lợi nghiêm trang và xúc động, như 1 nguyên thủ đọc diễn văn trước đám đông:
Kính thưa đồng chí thiếu tướng Quảng Lạc, thân sinh của con Quản Thị Linh, nhạc phụ của con Lê Kỳ Chu, ông ngoại của cháu Lê Kỳ Châu. Thưa chú Nguyễn Kỳ Vỹ và thím Đào Trinh Khiêm. Thưa chú Nguyễn Kỳ Quặc. Thưa bà Ma Thị Là, vợ tôi, cùng các con cháu trong gia tộc Nguyễn Kỳ - Hôm nay là 1 ngày trọng đại của gia đình. Nhân ngày ky nhật của thầy tôi, vợ chồng chúng tôi có lưng cơm, nén nhang tưởng nhớ thầy tôi và kính báo với thầy tôi cùng gia tiên dòng họ Nguyễn Kỳ 1 sự kiện quan trọng. Tôi, tên thật là Nguyễn Kỳ Khôi, bí danh CM là Chiến Thắng Lợi, có con trai là Lê Kỳ Chu, sinh ngày… tháng… năm… Do hoàn cảnh kháng chiến, bố con tôi đã thất lạc nhau hơn ba mươi năm. Nay nhờ ân huệ tổ tiên, bố con tôi đã tìm thấy nhau. Vậy hôm nay, trước vong linh tiên tổ, vong linh thầy, xin cho vợ chồng con cái Lê Kỳ Chu sửa lễ mọn bái yết gia tiên, ông nội, và từ nay xin nhận bà nội, bố mẹ, các chú thím, các em và họ hàng nội ngoại chi họ Nguyễn Kỳ…

Mâm đồ lễ nhận cha nhận họ đã được vợ chồng Chu chuẩn bị sẵn mang theo xe ô tô, giờ được Nhất và Mai bưng lên đặt trên ban thờ. Vợ chồng Chu, Linh như cặp tân hôn ngày lễ gia tiên, cùng quỳ trước ban thờ cầu khấn.

Lễ nhận họ xong, Chu đứng lên, tiến đến trước mặt ông Lợi. Anh như đổ vào ngực người cha.
- Bố ơi, sao bố không nói với mọi người về mẹ con? - Chu bỗng oà khóc - Sao bố không mời mẹ Đào Thị Cam của con đến đây? Không có mẹ Cam, làm sao con có cuộc hội ngộ này?
Cũng lúc ấy, như có luồng sáng nóng bỏng sau gáy, Chu vội quay lại.
Chu nhận ra đôi mắt Cục đang nhìn anh với ánh mắt thật khác lạ ánh nhìn ấy, như sự sắp đặt của định mệnh, mãi hơn hai mươi năm sau, Chu mới giải mã được.

THỜI CỦA THÁNH THẦN - Tác giả: Hoàng Minh Tường - Chương 24

"Anh vô vàn thương nhớ của em!
Mẹ con em đã viết cho anh bao nhiêu lá thư rồi, mà vẫn biệt tăm hơi. Tại sao anh không trả lời? Anh không được viết hay thư không đến nơi? Hay anh làm sao? Có bị đi cải tạo không? Có bị quản thúc không?
Cuộc ra đi như 1 hành trình vượt qua chín tầng địa ngục Sau bao ngày lênh đênh trên biển cả, Đức Chúa sáng danh đã cứu giúp mẹ con em cập bến an toàn…
Vậy là mẹ con em đang ở xa anh nửa vòng trái đất. 1 khoảng cách mà chỉ có nỗi nhớ thương mới đủ sức kéo lại gần…
Vân và Vy ngày nào cũng nhắc ba. Học tiếng Anh không vào chúng nó cũng viện lý do vì nhớ ba mà không học được.
Hôm qua, có tin tàu chở người di tản cập cảng. Ba mẹ con đến chờ ở cầu cáng mười tiếng đồng hồ. Gặp vợ chồng con cái anh Thới, mừng hết nói. Hỏi nhà em đâu, anh Thói bảo: "Tao cho nó đi free, nhưng nó ngu quá trời. Không muốn nói nữa. Mấy mẹ con gào trong nước mắt. Anh ơi, hay là anh đã quên mẹ con em? Hay đã có cô nào giữ anh ở lại?"


Đọc thư Miên, Vọng khóc tức tưởi. Nhạt nhoà giữa những dòng chữ là gương mặt của Miên, như 1 con chiên đang đau khổ và nhẫn nhục hướng về nước Chúa.

Thì ra Miên vẫn đau đáu, khắc khoải 1 nỗi nhớ về anh. Vọng bỗng thấy ân hận, muốn xỉ vả mình vì đã trót oán hận Miên khi mẹ con nàng bỏ nước ra đi đột ngột. Vọng đâu thấu hiểu quyết tâm ra đi của nàng đại mạnh mẽ và quyết liệt đến thế Nàng muốn đi trước tiền trạm. Muốn anh có thời gian sống với mẹ ít ngày, có thời gian thu xếp việc gia đình, chia tay người thân ngoài Bắc.

Anh Võ An Thới mà Miên viết trong thư, là người mà Miên tin cậy và nhờ thu xếp đưa Vọng sang với mẹ con nàng. Đó là người bạn thân của anh trai nàng, và sau này là người anh em thân thiết trong gia đình. Thới là 1 nhà sử học. Anh giảng dạy tại trường Đại học Vạn Hạnh. Sau ngày 80 tháng Tư, chính Thới đã nhiều lần khuyên nhủ vợ chồng Vọng nên ở lại góp phần tái thiết đất nước. Thới là người không thân CS, nhưng có tinh thần dân tộc, sẵn sàng hợp tác với chính quyền mới để xây dựng 1 nước Việt Nam thống nhất, giàu mạnh, sánh vai cùng các cường quốc năm châu. "Mình ủng hộ những người CS vì họ có khát vọng thống nhất Tổ quốc. Họ chỉ muốn đánh đuổi kẻ xâm lược, giành độc lập tự do cho dân tộc. Chúng mình cùng giống máu đỏ da vàng, cùng khát vọng như họ, tại sao phải trốn chạy đến 1 nước ngoại bang? Mình và Vọng lại là trí thức. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Kẻ sỹ hơn lớp bình dân là được học hành, biết sự chuyển xoay của thời cuộc…". Anh Thới đã nhiều lần nói với Vọng như vậy. Anh hăng hái tham gia vận động thành lập Hội Trí thức yêu nước của thành phố, vận động được rất nhiều nhà khoa học, giáo sư, kỹ sư, bác sĩ ở lại hợp tác với chính quyền mới.

Nhưng rồi Thới đã vỡ mộng. Người ta đã không cho anh giảng dạy và nghiên cứu lịch sử, bởi vì anh dạy khoá giáo trình lịch sử cận đại, là chuyên gia nghiên cứu về Triều Nguyễn và quá trình Nam tiến mở cõi của người Việt. Anh Thới có lần buồn bã nói với Vọng: "Người ta vứt tất cả mớ tài liệu nghiên cứu của mình vào sọt rác. Người ta xoá tên hết toàn bộ những con đường, những địa danh liên quan đến các chúa Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Khoát… các tướng Nguyễn Hữu Cảnh, Mạc Cửu… những người góp phần quyết định cho việc mở cõi trời Nam từ Thuận Hoá tới Hà Tiên. Lịch sử nghìn năm của dân tộc bị bóp méo, giản lược để chỉ tôn vinh, dồn cho mấy chục năm…"

Chỉ trong vòng hai năm, các thành viên của Hội Trí thức yêu nước lần lượt bỏ nước ra đi. Đây là thời kỳ làn sóng di tản ập vào từng nhà, trở thành câu chuyện cửa miệng ở các bến xe, quán hàng, phố chợ. Hàng nghìn người đi chui bị bắt, lại đi tiếp Rồi làn sóng người Hoa ào ào rời khỏi Chợ Lớn. Đã xuất híện nhiều đường dây bán chính thức. Chỉ cần nộp tiền nộp vàng là tàu đưa ra khỏi phao số không.

1 buổi tối, Thới đội mưa đến nhà Vọng.

- Mọi việc đã chuẩn bị xong. Bảo mật tối đa. Tầu được trang bị la bàn, dầu mỡ, đồ ăn đủ cho cả tháng. Chỉ cần đến Mã Lai sẽ có người đón. Mày muốn đi, tao cho đi free. Chuẩn bị lẹ lên nghe. Đúng hai giờ sáng mai hẹn gặp ở nhà dệt Tân Hội - Thới thông báo vắn tắt, rồi vội vã đi ngay.
Chao ôi, 1 cơ hội ngàn vàng. Đi với Thới chắc chắn sẽ trót lọt bởi anh là người chín chắn, tính toán chi ly mọi nước cờ.

Nhưng Vọng làm sao bỏ được mẹ 1 mình bơ vơ giữa đất khách quê người? Bà Cử Phúc đã vào ở với Vọng được gần 1 năm. Nhờ sự tận tâm của Khuất Sỹ Hào và Xoan, Vọng đã nhập được hộ khẩu cho mẹ. Từ ngày đón mẹ vào, dù đi công tác đâu xa, Vọng vẫn dành thời gian về chăm sóc mẹ. Mẹ gầy yếu quá anh tìm đến tận ông Lang Chánh phố Hải Thượng Lãn ông ở Chợ Lớn cắt thuốc bắc cho mẹ. Tự tay sắc thuốc ép bà cụ uống mỗi ngày. Mỗi tuần anh đặt mua ở chợ Bà Chiểu 1 con gà đen, tiềm tam thất, quy, thục ép bà cụ ăn. Người già như trái chín cây. Không biết rụng ngày nào. Nhìn mẹ nhai trệu trạo, vừa ăn vừa nằng nặc đòi về Bắc gặp Vỹ, đòi về ở với vợ chồng Cục, Vọng cũng không nuốt nổi. Bà cụ bảo:

"Hoá ra thằng Vỹ phải đi tù. Thế mà mẹ Khiêm nó giấu u bảo chồng nó đi công tác nước ngoài. Khổ. Thằng Vỹ tội tình gì mà đến nông nỗi ấy?" Trong những đứa con của mẹ, Vọng thấy mình là đứa bất hiếu. Bỏ mẹ biền biệt mấy chục năm trời. Anh cố níu kéo mẹ nán lại vài năm để được phụng dưỡng…

Đêm ấy, khi Thới đi rồi, Vọng vội vã thu xếp quần áo, đồ đạc. Anh xuống nhà xe, moi hết số vàng, đá quý còn giấu trong hộp dầu nhờn san ra làm hai, 1 gói mang đi phòng thân, 1 gói để lại, kèm mấy chữ viết cho Cục.

Còn gì nữa nhỉ? Ngôi nhà, làm sao mang theo được? Vọng tin, sau khi Vọng đi, mẹ sẽ gọi các anh Khôi, Vỹ, Cục vào tìm cách quản ngôi nhà. Hào và Xoan sẽ tìm cách giúp bà cụ. Vả lại, đã đến cái bước đường cùng này thì còn tiếc cái gì? Cuộc đi này Vọng chấp năm ăn năm thua. Mất thì làm mồi cho cá biển. Được thì sang gặp Miên và hai con Vân, Vy.

Vọng rón rén vào phòng bà Cử Phúc. Trong ánh sáng vàng mờ của ngọn đèn ngủ, bà cụ nằm như 1 con mèo hen, quay mặt vào tường, chiếc mền chăn đắp ngang người. Lặng lẽ ngắm nhìn mẹ, môi cắn chặt cho khỏi bật khóc, Vọng quỳ vái sống mẹ ba vái.

- Làm gì mà lục đục cả đêm thế con? - Hoá ra bà Cử Phúc vẫn thức, bà trở mình nói với Vọng - Đi ngủ đi. Mai còn đến cơ quan chứ.
Chi 1 câu nói của mẹ, đủ làm cho Vọng không thể bước đi được nữa.
Anh có ngờ đâu, chuyến vượt biển ấy của vợ chồng con cái Thới lại rất suôn sẻ. Chỉ hơn bốn tháng sau họ đã đặt chân tới nước Mỹ.

***

Thư của Vân và Vy như xát muối vào lòng Vọng.

"Ba ơi, chúng con không thể viết dài. Vì cứ định viết thư cho ba là cả hai chị em cùng oà khóc. Hai chị em con viết chung gửi ba mấy dòng này thôi. Khi nào gặp ba chúng con sẽ kể biết bao nhiêu là chuyện.

Ba ơi, ba có còn yêu chúng con không? Ba có nhớ chúng con không? Bác Thới báo tin ba không sang, chúng con muốn ngất xỉu. Vậy là Ba đã quên chúng con rồi. Những đứa con gái tội nghiệp trên đất khách quê người, thiếu quê hương, thiếu Tổ quốc giờ lại thiếu người cha mà chúng hằng yêu kính. Nước Mỹ của hợp chủng quốc, nhưng không có chỗ cho những đứa con Việt tha hương.
Sao chúng con thấy nhớ SG, nhớ quê hương đất Việt vô cùng. Nhớ những hàng me dọc phố Nguyễn Du, những hàng sao, hàng dầu cao vút dọc đường Duy Tân, Pétrus Ký…

Mùa thu ở bên này tuyệt đẹp. Nhưng vẫn không sao quên được mùa mưa SG. Những con đường láng ướt hàng cây sau mưa và quán crem ông Già ở đầu đường Tự Do… Có những ngày chúng con lang thang ở công viên trung tâm New Orleans và cố đi tìm bước chân ba từng đến đây tu nghiệp cái năm ba sắp cưới mẹ… New Orleans quả là thành phố du lịch tuyệt vời như ba đã kể. Ba ơi, khi nào ba sang, cho chúng con đi chơi hồ Michigan ba nhé…"

Lá thư chỉ hai trang giấy nhưng Vọng phải ngừng nghỉ mấy lần. Anh đâu có ngờ 1 ngày nào đó các con anh lại đi tìm dấu vết những kỷ niệm về nước Mỹ mà anh từng kể cho các con nghe để khích lệ hoài bão học tập của chúng. Duyên nghiệp chăng khi vùng đất của các bang Louisiana, Iowa, Indiana… xa xôi bên kia bán cầu, mà Vọng tưởng chỉ đi qua, như 1 bài học địa dư, nay lại là mảnh đất nương thân của bao người ruột thịt? Ngày ấy, lần đầu tiên đặt chân tới thủ đô nước Mỹ, Vọng không thấy choáng ngợp, mà chỉ thấy sợ cái giá lạnh buốt giá, tuyết trắng xoá ngoài công viên, tuyết đen nhớp nhúa trên các đường phố. Chỉ đến khi tới hồ Michigan mùa băng tuyết, anh mới thấy hết vẻ hùng vĩ của Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ. Lần ấy, sau 1 tuần ở thủ đô để học khoá hướng dẫn, trên đường từ Washington DC về Louisiana, máy bay dừng ở Chicago ba giờ. Đó là khoảng thời gian thật tuyệt vời. Lợi dụng cơ hội có 1 không hai, Vọng đáp xe buýt, đi thăm hồ Michigan để thưởng lãm những mảnh băng tan lềnh bềnh, như những toà lâu đài khổng lồ, đủ loại hình khối kỳ dị lừng lững trôi trên mặt hồ dậy sóng.

Riêng New Orleans thì quả là thiên đường của những người ham xê dịch. Vọng đã được tham gia 1 tour du lịch ba ngày nhớ đời. Ngày đầu đi thăm cầu Pontchartrain 24 dặm, dài nhất thế giới, rồi cầu xe lửa Huey B. Long cao nhất thế giới, sân vận động có mái che (Superdome) 100.000 chỗ ngồi, rộng nhất thế giới. Ngày thứ hai đi thăm French Quàrter, ngồi xe điện đường St. Charles ngắm những biệt thự kiến trúc theo kiểu Pháp xen giữa những cây sồi xanh um. Và ngày thứ ba, 1 tour độc đáo: đi swamp (du lịch đồng lầy) và công viên quốc gia lịch sử Jean Laflĩtte. Ngồi trên tàu đáy bằng du khách tha hồ xem cá sấu như thời hồng hoang… Cái vùng đất bang Louisiana, nơi mà Vọng đã thực tập hai tháng trời, nơi anh đã học hỏi được nhiều điều bổ ích cho công việc cầu đường của anh, có cấu tạo địa chất thuỷ văn tương tự như đồng bằng sông Cửu Long quê mình. Không ngờ vùng đất ấy đang là nơi dung thân, nơi dồn tụ của hàng vạn gia đình người Việt, nơi Miên và các con anh đang sống trong nỗi khắc khoải đợi chờ…

Nước Mỹ bên kia đại dương, từng xa lạ và thù hận, giờ hằng ngày lởn vởn trong đầu Vọng, mờ ảo trong cả bữa ăn, giấc ngủ. Vọng không giấu được nỗi nhớ vợ con đến vật vã, cồn cào. Cả Xoan, cả Khuất Sỹ Hào đều biết rõ điều đó, khi họ dễ dàng đọc được những lá thư từ nước Mỹ chữ đã nhòe mờ thỉnh thoảng Vọng lại mở ra xem, rồi để đâu đó không cần che giấu.

- Em biết là anh Vọng không thể quên được chị Miên - Đó là câu nói nửa như trách móc, nửa như có phần tự bào chữa của Xoan, trong cái đêm chị ngủ lại trông bà Cử Phúc bị trúng cảm.
Từ ngày vào SG, Xoan là bạn tâm giao của bà Cử Phúc. Chị hợp tính bà, biết chiều chuộng người già, lại xởi lởi hay chuyện. Đặc biệt, Xoan giúp bà cụ nhớ về quê Bắc nhờ những làn điệu chèo quyến rũ mê hồn. Bà Cử Phúc nhận Xoan là con, xưng u, và không giấu giếm mong muốn Xoan là con dâu bà.

- Con làm cho nó đừng có nhớ nhung sầu não nữa. Cố mà giữ nó ở lại cho u. Trông nó khô khan thế, chứ chẳng phải gỗ đá gì đâu. Khổ, cũng là cảnh nửa đời nửa đoạn. Đàn ông mới qua tuổi bốn mươi mà đã phải diệt dục. Thà là chết vợ nó đi 1 nhẽ… Trông nó suốt ngày ủ dột, u chẳng còn lòng dạ nào…

- Con cũng thương anh Vọng. Nhưng anh ấy cứ như thầy chùa - Xoan nói.

- Thì thế nên u mới muốn con năng đến. Mưa dầm thấm lâu nước chảy đá mòn con ạ…
Bà Cử Phúc tìm mọi cớ rủ Xoan đến chơi, rủ Xoan ngủ lại. Những món ăn truyền thống xứ Bắc: Canh riêu cua ăn với rau ghém, cà muối xổi canh cá rô rau cải xanh; canh ốc nấu với chuối xanh, đậu phụ và thịt ba chỉ; canh cá trê dưa chua; thịt kho tàu; xôi vò ăn với chè hạt sen… gợi vơi đi nỗi nhớ quê nhà.

Hôm ấy, SG nóng tới bốn mươi độ C. Trong phòng có máy điều hoà, nhưng bà Cử Phúc không quen dùng. Vật bất li thân của bà là chiếc quạt giấy. Thấy mẹ vật vã trong cái nóng, Vọng mở cả điều hoà và quạt. Nào ngờ buổi tối bà cụ trúng cảm lạnh. 1 mình Vọng không biết xoay xở ra sao. Bà Cử Phúc bắt Vọng gọi điện cho Xoan đến. Chị đi tìm lá ngải cứu đánh gió, nấu cháo hành cho bà cụ ăn. Nửa đêm thì cơn sốt dịu, bà cụ chợp được 1 giấc sâu.

Xoan vào nhà tắm dội nước ào ào. Nhìn da thịt mình ngồn ngộn trong gương, Xoan thấy phấn khích, muốn được ve vuốt, được vỗ về. Chị lim dim mắt nghĩ đến Vọng và Hào. Thật quá trớ trêu với cái trò mỹ nhân kế mà Khuất Sỹ Hào đã bày đặt.

Hào tưởng chơi trò trận giả, tự cho mình cái vai trò Trọng Thuỷ để bắt nàng Mỹ Châu, là Xoan, ăn cắp nỏ thần, tưởng lịch sử luôn lặp lại, Xoan mãi mãi là người của anh ta, nào ngờ gậy ông giờ lại đập lưng ông…

Ngẫm ra Khuất Sỹ Hào quả là người khôn ngoan, có óc nhìn xa trông rộng. Khi phát hiện ra ngôi biệt thự của Vọng là 1 món mồi rất béo bở, nếu Vọng đi tản, Hào đã bàn cách dùng kế mỹ nhân để gài Xoan vào làm nội gián. "Em phải cưa bằng đổ ông Vọng. Với sắc đẹp của em, đến thép cũng phải chảy" - Hào giao nhiệm vụ cho Xoan. Tất cả mọi nỗ lực, động thái Hào giúp Vọng việc này, việc kia đều chỉ xoay quanh mục tiêu ngôi biệt thự. Bây giờ thì cả Xoan, cả Khuất Sỹ Hào đều trở thành người thân thiết của Vọng, của bà Cử Phúc. Thậm chí, trong thời gian Hào giúp bà Cử Phúc nhập hộ khẩu, anh ta cũng đã thuyết phục Vọng cho cả Xoan cùng nhập vào. Mọi đường đi nước bước đã được Hào tính toán chi ly. Chỉ chờ giờ G nữa thôi. "Mà giờ G trước sau cũng đến - Hào nói toạc với Xoan, khi biết tin mẹ con Miên đã sang Mỹ an toàn và gửi thư về - Anh biết, trước sau thì Vọng cũng phắn. Thứ nhất, Vọng là người chân chỉ hạt bột, đời chỉ biết phụng sự vợ con. Cái chất kẻ sỹ Bắc Hà, tôn thờ đạo Khổng trong Vọng rất rõ. Suốt đời Vọng chỉ mong là 1 công chức mẫn cán, mong 1 gia đình yên ấm, chung thuỷ đạo vợ chồng. Thứ hai, 1 trí thức như anh ta, từng làm đến chức Trưởng Ty Giao thông Công chánh, từng có bằng kỹ sư đặc hạng, tiếng Anh tiếng Pháp làu làu sách khoa học viết hàng chồng. Viết báo cáo tổng kết đến Cục trưởng, Bộ trưởng cũng phải kính nể, giờ đang là nhân viên quèn, lương cán sự hai, tương đương mấy chục bát phở.

1 người như vậy làm sao mà chịu được cung cách quản lý và trình độ khoa học của các quan chức CS? Hai ý thức hệ tư tưởng, hai thể chế, hai cung cách… tất tật đều đối chọi nhau, loại trừ nhau. Hết chiến tranh ùng oàng súng đạn là cuộc chiến tranh về ý thức hệ, về đường lối phát triển kinh tế, văn hoá xã hội. Dẫu có là tướng sĩ tượng thì ông Vọng cũng đành thúc thủ vì những quân tốt đỏ đã áp sát. Thế cờ giờ chỉ còn là những nước đi ngang phè của những quân tốt. Cho nên, "Liệu mà cao chạy xa bay. Ái ân ta có ngần này mà thôi… Nếu là anh, dù có bỏ mạng cho cá rỉa ngoài đại dương, anh cũng good bye".

Khuất Sỹ Hào quả là đã nhìn thấu suốt tim gan Vọng. Nhưng, trớ trêu, càng tiếp xúc, gần gũi với Vọng, Xoan càng thấy bị cảm hoá, càng thấy giữa Vọng và Hào khác nhau 1 trời 1 vực. Hào chỉ là 1 tay dẻo mỏ, cơ hội tầm thường, còn Vọng thực sự là 1 nhân cách… Những ngày gần đây, nhiều lúc trông Vọng như người mất hồn. Xoan thấy thương anh. Giá mà bù đắp được cho Vọng! Ước gì Xoan giúp bà Cử Phúc giữ Vọng lại! Người như Vọng rất cần cho đất nước, rất có ích cho mọi người. Vọng bỏ nước ra đi thì tiếc biết bao…

Vọng choáng váng khi Xoan trong bộ đồ ngủ, cùng mùi sữa tắm White Care ngào ngạt vào phòng.

- Khó ngủ quá. Cho em nhờ quạt với.

Xoan nói và chiếu những tia mắt nồng nàn qua hàng mi rợp, khiến Vọng bối rối.
Vọng không dám nhìn lâu. Nhưng cái khoảng trắng ngần với 1 đường sâu hun hút của bộ ngực căng mọng phập phong, chỉ thoáng qua cũng đủ ám ảnh, làm rối trí. Đâu óc Vọng bỗng chao đảo, như người say rượu.

Từ hồi Miên đi, đêm nào Vọng cũng đọc kinh trước Chúa, ngày nào cũng tự sám hối. Cuộc sám hối mới nhất, cách đây chừng vài tháng. Ấy là cuộc tình đơn phương của Út Thương, em gái Ba Thi, bạn học của Miên. Cả nhà bỏ đi trong đợt 30 tháng Tư. 1 mình Út Thương ở lại chăm ba đau ốm, không kịp di tản. Rồi ba Thương cũng phải đi trại cải tạo Giá Rai, Long Khánh. Thấy hoàn cảnh Út neo đơn, thỉnh thoảng Vọng lại đưa cô lên thăm nuôi ba. Không ngờ Út thương Vọng từ lúc nào. Có lần xe chạy qua rừng cao su tối mịt mùng, Út cứ ôm nết lấy Vọng, gục mặt lên vai anh mà khóc. "Anh Tư có thương em không? Hồi chị Miên ở nhà em giấu kín. Bây giờ chị đi em mới dám nói! Trời ơi, hoá ra Thương nói thật.

Thương từ chối bao nhiêu người đàn ông ngưỡng vọng cô. Thương bảo, em chỉ nghĩ đến anh thôi. Đến chỗ đường ngoặt, Thương ôm ghì lấy Vọng, bảo anh dừng xe, hai đứa tạt vào lô cao su. Chỉ cần dừng xe, chỉ cần lẫn vào mịt mùng cao su kia, Vọng sẽ không giữ nồi, sẽ không còn là của Miên nữa. Vọng đành nói thật với Út Thương cái ý định anh sẽ vượt biên. Anh muốn giữ mình trọn vẹn cho tới lúc gặp Miên… Út Thương khóc oà, nhất định không chịu ngồi xe với Vọng. Cô đòi anh đón 1 chiếc xe khách chở cô về thành phố.

Bây giờ, người vừa vào phòng anh là 1 Út Thương khác. Đã bao nhiêu lần Vọng phải lẩn tránh cái nhìn hút hồn của Xoan. Xoan luôn như miếng mỡ ngon lành, còn anh nhiều khi không giấu được bản tính của 1 chú mèo.

- Anh Vọng hứa mấy lần rồi mà không chịu nhớ - Xoan đến bên bàn, nơi Vọng đang dịch 1 tài liệu tiếng Anh.
- Tôi hứa gì nhỉ?
- Biết ngay mà. Còn đầu óc đâu để nghĩ đến em?

Xoan đứng sát sau ghế, người hơi cúi xuống Vọng. Anh cảm nhận rất rõ những sợi tóc mai, hơi thở nồng nàn của cô đang phả vào gáy, còn cặp tuyết lê như chùm trái chín đang đung đưa sau vai anh, có lúc chạm vào da thịt anh, nóng bỏng.

- Không nhớ ra à? Em nhắc lại nhé: Dạy-em-tiếng-anh. Tiếng-của-anh.
Xoan cười, tiếng trong và ngân, như tiếng chuông gió. Rồi bất ngờ vòng tay ngà ngọc quàng qua ngực Vọng.
- Em đố anh nhé. Love You tiếng Anh là gì?
Vòng tay và khuôn ngực Xoan khiến Vọng như ngợp thở.
Anh bối rối xoay chiếc ghế. Cả gương mặt nóng bừng của anh đỡ gọn hai bầu vú Xoan lúc này đã thoát khỏi hai vạt áo ngủ, như hai trái đào tiên trĩu nặng. Quá choáng ngợp, cùng với ham muốn bản năng bị kìm nén lâu ngày, Vọng cuống cuồng luồn tay ôm lấy vòng eo người đàn bà xiết mạnh.
- Ối em chết mất - Tiếng rên khẽ của Xoan, chứng tỏ nàng đang bị kích thích mạnh.
Xoan đỡ Vọng lên, giúp anh dịch đến bên giường.
Giá như Xoan không vươn tay tắt đèn, giá như cô không có cái bản năng e thẹn, sợ ánh sáng quá mức trong các cuộc hoan lạc, chắc chắn tình thế đã khác. Nhưng đúng vào lúc Xoan tắt đèn thì Vọng bừng tỉnh. Ngọn đèn trái hồng trên ban thờ làm nổi hình cây thập tự và hình Chúa tuẫn nạn, khiến Vọng toát hết mồ hôi.
- Xin lỗi, tôi đang làm gì thế này? - Vọng như nói với chính mình và ngồi vục dậy.
Hết trò. Xoan buông xuôi hai tay như người chết đứng. Rồi như không thể chịu nồi, cô bưng mặt, bật khóc, chạy ra khỏi phòng.

***

Có thư của Cục viết vào báo tin cháu Cách bị thương ở mặt trận Campuchia, đang nằm điều trị ở bệnh viện Quân y 147.

Vọng, rồi cả bà Cử Phúc, cả Xoan cùng đến thăm. Hằng tuần tranh thủ những ngày nghỉ, Vọng lại vào thăm, tiếp tế thêm thuốc bổ và thức ăn cho cháu.

Vết thương của Cách ở phần mềm, đạn xiên táo từ vai, qua ổ ngực, xé nát cánh tay phải. Theo các bác sĩ, với sức trẻ như Cách, chỉ cần bốn tháng, vết thương sẽ lành, lại có thể trở lại chiến trường.

Cục viết thư cho Vọng:

"Em nghe binh tình, mặt trận K không biết đến khi nào mới xong. Nghe ông tướng thông gia với nhà bác Lợi nói, quân mình thương vong nhiều vì thiếu lương thực, đạn dược, lại không nắm được dân. Mình ở trong nhà họ, đóng quân gần nhà họ, ban ngày họ hợp tác với mình, nhưng tối họ lại ra rừng tiếp tế cho quân Khơme đỏ, cầm súng bắn mình. Cháu Cách bị thương là do bị bắn lén phía sau. Chơi với chiến tranh du kích của họ, mình không thắng được. May mà cháu Cách bị thương, coi như thoát chết. Em nhờ bác, quan hệ với bệnh viện cho cháu Cách nó cái giấy thương binh nặng để cháu về quê. Thằng Công, thằng Cài, hai anh nó đã mất xác ở Trường Sơn rồi, giờ còn 1 giọt máu của Bính… Cháu Cách mà mệnh hệ nào, em làm sao sống nổi?"

Cuộc chiến Campuchia ác liệt thế nào thì Vọng quá biết. Anh đã được phân công trong ban kỹ thuật tái thiết cầu Gò Dầu Hạ trên quốc lộ 20 để mở đường cho xe tăng ta tiến vào Phnômpênh. Hầu như toàn bộ vũ khí tối tân hiện đại của phe ta, cộng thêm vũ khí hiện đại của Mỹ ta thu được đều đem sang chiến trường Campuchia, nhưng xem ra chúng ta đang đấm vào bị bông, chúng ta đang đánh nhau với những bóng ma.

Lá thư của Cục, làm Vọng rất khó nghĩ. Nếu là tiền bạc thì dù thế nào anh vẫn lo được. Nhưng đây lại là cái giấy chứng thương. Sức khoẻ thằng Cách thế nào, nó bày ra bệnh án cả. Làm sao công biến thành quạ được?

Bí quá, Vọng đành nói với Khuất Sỹ Hào.

- Cháu nó đang ở bệnh viện 147 phải không? - Hào chau mày suy nghĩ 1 lát rồi gật gù - Em có cách rồi. Cô Xoan có người anh họ là bác sĩ ngoại ở đó. Vấn đề là… - Hào bật ngón tay cái vào ngón giữa tanh tách.
- Cái đó để tôi lo - Vọng dúi vào tay Hào ba lá vàng Kim Thành - Nếu thiếu thì tôi lo tiếp.
Ngày Cách sắp ra viện, Vọng viết thư báo tin cho Cục bảo Cục vào đón con về phép. Vọng sẽ tài trợ toàn bộ vé tàu xe của cả hai bố con.

Chuyến hành phương nam của Cục, không ngờ lại là 1 cuộc đại đoàn viên của chi họ Nguyễn Kỳ tại SG.

Nếu như buổi giỗ ông Lý Phúc và cuộc nhận cha ở nhà ông Lợi chỉ thiếu bà Cử Phúc và Vọng thì cuộc đoàn viên này chỉ thiếu vợ chồng con cái Vỹ.

Cục vào được mấy ngày, thì vợ chồng ông Lợi cùng con gái Chiến Huyền Ly cũng đáp máy bay vào thành phố. Hiếm có 1 cuộc trùng hợp thế này, vì ông Lợi phụ trách công tác cải tạo công thương nghiệp đợt hai, đáp máy bay ra vào như cơm bữa. Nhưng bà Là phải thu xếp phép năm. Với lại cũng chọn dịp nghỉ lễ mới cho con gái Chiến Huyền Ly theo cùng.

Ngôi biệt thự suốt mấy năm đìu hiu, giờ bỗng tưng bừng như mở hội. Mẹ con Là được xếp ở căn phòng cũ của Miên trên lầu 1, nên từ ngày vợ đi di tản, Vọng ít khi lui tới, vì không muốn chạm đến những kỷ niệm xưa. Ông Lợi ở và làm việc tại nhà khách thành phố, buổi tối và ngày chủ nhật thường đến ăn cơm với cả nhà. Vẫn 1 phong cách trầm mặc, lạnh lùng của nhà chính trị, ông Lợi thường hay trầm ngâm đứng trên ban công lầu hai nhìn khắp khu vườn, rồi phóng tầm mắt qua những nóc phố, nghĩ ngợi. Là có vẻ cũng chia sẻ ý nghĩ với chồng. Chị thích thú đặc biệt với ngôi biệt thự, vì cách xây dựng và bài trí hiện đại.

- Vợ chồng chú Vọng ngày trước sống sướng hơn cả Bộ trưởng ấy bà ạ - Là thì thào với bà Cử Phúc - Ngôi biệt thự này to gấp hai nhà con. Riêng cái nhà xe của chú ấy cũng đủ cho 1 hộ năm người.
- Chẳng có đâu bằng quê mình - Bà Cử Phúc chép miệng - Đợt này tôi nhất quyết theo bố con thằng Cách về quê. Nhà cửa bố Vọng nhờ cô Xoan trông nom.
- Bà bảo định tác thành cô ấy cho chú Vọng phải không? Con thấy được đấy. Bà dặn chú ấy đừng có di tản di tong gì hết. Sang Mỹ cũng chỉ ăn cơm thừa sữa cặn, làm nô lệ cho Đế quốc sài lang. Nhà con bảo, Liên Xô, Đông Đức với các nước bạn phe mình đang sắp hoàn thành giai đoạn xây dựng Chủ nghĩa xã hội phát triển. Rồi cả phe người ta xúm vào kéo mình lên vù vù ấy chứ. Nhà con bảo, con đường ai thắng ai sắp ngã ngũ rồi. Đế quốc Mỹ trước sau vẫn là con hổ giấy. Để con khuyên chú ấy. Cứ để mẹ con thím Miên ở bên ấy. Cưới ngay cô Xoan thì còn kịp đẻ 1 thằng cu.
Bà Cử Phúc nói thầm với Cách:
- Bà cứ chuẩn bị quần áo đồ đạc trước. Nếu bác Vọng không cho bà về với bố con mày, bà sẽ trốn…
Cách đã ra viện, được về với người thân, như chim sổ lồng suốt ngày rủ chị Ly lai bố Cục, mẹ Là đi chơi khắp SG.

Cách béo trắng, như chưa hề qua những ngày thập tử nhất sinh, chưa hề nếm mùi lửa đạn. Giấy chứng thương của cậu ghi mất 34 phần trăm sức khoẻ, nếu đối chiếu thang bậc, thượng sĩ Nguyễn Kỳ Cách sẽ được xếp hạng thương binh loại ba.

Cầm hồ sơ xuất viện, Cục gật gù:

- Thế này thì ổn rồi. Cái gáo của thằng Cách chắc trên cổ còn hơn cả bê tông cốt thép. Chuyến này về, em phải cưới vợ cho nó. Bác Vọng thế nào cũng phải ra.
Vọng không nói gì, chỉ gật đầu ra hiệu.
Cục làm sao biết được để có cái giấy chứng thương kia Vọng đã phải đưa cho Khuất Sỹ Hào hai cây vàng Kim Thành.
Cục càng không thể biết rằng, không cần đợi đến đám cưới Cách, chỉ sau khi đưa bà Cử Phúc, mẹ con chị Là và bố con Cục về Bắc, Vọng sẽ ra đi vĩnh viễn. Có thể sẽ không bao giờ gặp lại…

***

Kế hoạch vượt biên đã được Vọng ngấm ngầm chuẩn bị từ hai tuần nay.
Đầu mối và đường dây, không phải ai xa lạ, chính là Khuất Sỹ Hào.
Câu chuyện bắt đầu từ sau cái hôm Hào thông báo cho Vọng hay tin lãnh đạo Cục đã quyết định cử anh đi Campuchia làm cố vấn. Đây là 1 thử thách lòng trung thành với chế độ. Không phải ở thủ đô Phnompênh mà về các tỉnh, các vùng chiến sự ác liệt. Hơn bất cứ ngành nào, cầu đường và y tế là hai ngành luôn ở sát mặt trận, bên cạnh người lính. Vì thế mức độ ác liệt sẽ vô cùng.
- Anh hãy suy nghĩ kỹ đi - Hào nói - Rất thương anh, em mới báo tin này. Chỉ còn chờ ý kiến họp liên tịch. Vì người ta chưa tin anh, sợ anh sang bên đó rồi chuồn qua Mỹ.
- Tôi cũng chẳng biết phải làm gì để họ tin mình…
Hào nhìn Vọng rất lâu như thăm dò, cân nhắc điều gì, rồi đột ngột hạ giọng:
- Sang đó cũng cầm bằng đi vào chỗ chết. Chín đi chỉ có 1 về. Quân Khơme Đỏ mới được quan thầy trang bị cho loại súng bắn tia hồng ngoại, trăm phát trăm trúng. Chúng toàn bắn tỉa vào ban đêm. Anh cân nhắc kỹ đi. Đi Cămpuchia hay ở lại, với anh, đều bị dồn vào tử địa. Em biết đã đến lúc anh ói mửa ra rồi. Chính quyền CS không xực nổi anh. Và anh cũng không xực được họ. Trong trường hợp này, binh pháp Tôn Tử xếp vào kế sách thứ ba mươi sáu: "Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách". Ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn.
Vọng giật mình. Hào nhắc lại đúng câu Võ An Thới nói với anh trước ngày di tản.
- Chú bảo chuồn đi đâu?
- Ông anh đừng giấu thằng em. Mình ông anh ở nước Ngô, nhưng đầu ông anh lúc nào cũng ở nước Sở. Ngày nào mà anh chẳng cầu Chúa để mong chóng được sang với mẹ con chị Miên.
- Chết. Sao chú biết?
- Ông anh hơi coi thường Sỹ Hào này. Biết là ông anh còn chưa tin nên thằng em chưa tiện nói. Giờ em hỏi thẳng anh nhé. Có đường dây bán công khai chịu trách nhiệm toàn bộ từ A tới Z, khi nào chuyến đi trót lọt mới lấy tiền, anh có ưng không?
Gần đây Vọng có nghe nói về đường dây di tản bán công khai, thực chất là những tổ chức làm tiền do 1 số phần tử trong bộ máy chính quyền… thoái hoá biến chất, đứng ra bảo kê và làm dịch vụ đưa người vượt biên. Đi theo đường dây này, chắc chắn sẽ lọt qua phao số không. Từ hải phận quốc tế, tuỳ thuộc vào định mệnh. Nếu tàu không đắm vì bão tố, không bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, giết chóc, may ra tới được miền đất hứa.
- Tôi tin ở chú. Nếu chú thu xếp được…
- Phải chắc như đinh đóng cột, thằng em mới nói với ông anh.
- Vậy nhờ chú thu xếp cho tôi 1 suất. Hết bao nhiêu?
- Giúp cho ông anh đi được là em mừng, chứ tiền nong không thành vấn đề. Nhưng sao chỉ 1 suất? Thế còn bà cụ?
- Làm sao mà đưa u tôi đi được? Tạm thời bà cụ sẽ ở lại với cháu Cách. Rồi Cách sẽ đưa u tôi về Bắc.
- Tốt rồi - Hào gật gù - Em sẽ bảo cô Xoan đến trông nom bà cụ. Anh cho em dự kiến thời gian đi, để em bố trí.
Kế hoạch được nhanh chóng hoàn tất. Chi phí cho cả chuyến đi hết hai mươi cây vàng ba sọc. Nhưng Hào sẽ chỉ lấy trước năm cây, mười lăm cây còn lại sẽ được thay vào giấy tờ thế chấp ngôi biệt thự của Vọng. Nếu cuộc đi bị trục trặc hoặc Vọng bị bắt lại, Hào sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền, vàng và mọi giấy tờ
Lịch trình cho chuyến vượt biên đã được gút lại vào giờ chót: Vọng phải có mặt tại bến Cửa Cạn, thành phố Vũng Tàu lúc 0 giờ ngày X. Quá giờ quy định, coi như Vọng tự huỷ chuyến đi, phía tổ chức không chịu trách nhiệm.
0 giờ ngày X, tức là 24 giờ ngày Y, ngày bà Cử Phúc và bố con Cục lên tàu ở ga Bình Triệu, lên đường ra Bắc.
Trái với dự đoán của bà Cử Phúc, Vọng dễ dàng đồng ý để mẹ về quê.
- U không muốn ở, con cũng không dám giữ. Số con chỉ được phụng dưỡng u ngần ấy ngày.
- U đã nói với cô Xoan rồi. Con đồng ý để cô ấy đến ở trông nom nhà cửa cho con nhé. Nhớ nghe lời u. Có thế u về quê mới yên lòng.
Vọng gật đầu không nói gì.
Anh gọi hai bố con Cục vào phòng, đóng chặt cửa lại, rồi lấy ra 1 gói đã được chằng buộc rất kỹ.
Gói này bác giao cho thằng Cách giữ. Để trong ba lô và trông nom kỹ không được để mất cắp trên tàu. Đây là nhiệm vụ không kém gì sứ mạng 1 người lính. Trong gói này có thư chuyển cho bác Vỹ và mọi người. Chú Cục sẽ trực tiếp mở và làm theo lời tôi dặn. Tôi nhắc lại: Tuyệt đối không được mở thư trên tàu hoặc dọc đường. Chỉ mở thư khi đã về tới nhà. Chú Cục và cháu Cách đã nghe rõ chưa?
Cục cùng con trai khoanh hai tay:
- Dạ, bố con em sẽ làm đúng như lời bác dặn.
Vọng xếp gói đồ vào đáy ba lô của Cách.
Trước giờ tàu chạy, Vọng thuê xe taxi. Đích thân anh đưa mẹ và bố con Cục ra ga Bình Triệu.
Đó là 1 cuộc chia ly đẫm nước mắt. 1 buổi sáng nắng loá và oi bức đến ngột ngạt. Nắng đến mức những chùm hoa giấy chói gắt và những vầng phượng vĩ như lửa, không ai dám nhìn.
Tiếng còi tàu hú dài nghe thê lương như tiếng kêu vĩnh biệt. Con tàu đi khuất mà Vọng vẫn đứng giữa sân ga như người mất hồn.
Lát sau, Vọng như bừng tỉnh. Anh chắp tay vái dài về phương Bắc, rồi vội vã khoác túi du lịch, hành trang của kẻ vượt biển, lên vai.
1 chiếc taxi trườn tới. Vọng tự mở cửa xe và bảo người tài xế chạy thẳng Vũng Tàu.
Còn mười lăm tiếng nữa.
Thời gian đủ cho anh có mặt ở nơi tập kết.
Ngày mai, Vọng phó mặc cuộc đời mình cho mù mịt đại dương.

THỜI CỦA THÁNH THẦN - Tác giả: Hoàng Minh Tường - Chương 25

Con Cục đưa bà Cử Phúc về quê rồi mà mấy hôm sau vẫn chưa kịp hoàn hồn vì chuyến tàu khủng khiếp.

Con tàu Thống Nhất phải dừng lại ga Mường Mán 1 ngày vì tàu vào trật bánh ở gần ga Diêu Trì, gây ùn tắc cả tuyến. Như cuộc trường chinh không mệt mỏi, những chuyến tàu ra vẫn kìn kìn chở gạo, hoa quả, vải vóc, nước mắm, bột ngọt, khung xe đạp, hàng điện tử phế thải và búp bê… Ba chuyến tàu ra nối đuôi nhau chờ đợi suốt từ Nha Trang vào đến Phan Thiết. Sự nghèo khổ, thiếu thốn của nửa nước phía bắc không giấu giếm nổi trên tuyến đường sắt xuyên Việt.

Sân ga Mường Mán trở thành 1 bãi phóng uế khổng lồ, 1 cái chợ tạm vĩ đại với đủ loại dịch vụ từ ăn uống, tắm rửa, trao đổi, buôn bán, chửi bới, cãi lộn. Trẻ con kêu khóc như ri. Đủ thứ rác rưởi, giấy báo, đồ lót vứt đầy sân ga, đường ray. Nước đái dềnh lên từng vũng. Phân người vung vãi khắp nơi. Mùi dơ dáy phải đào thải của cả ngàn con người dồn tụ trong 1 không gian tù hãm chật hẹp… Bà Cử Phúc mấy lần suýt ngất xỉu vì khát, vì cố nhịn không dám đại tiểu tiện, cuối cùng không đừng được, đã phịch hết ra quần. Bố con Cục vừa phải giải quyết hậu quả, vừa phân công nhau canh chiếc ba lô, hai đêm liền không dám ngủ. Nhiều người réo trưởng tàu, réo lãnh đạo đường sắt chửi rủa thậm tệ. Có ông chửi thề: "Đ. mẹ. Tàu Thống Nhất đéo gì. Ông mà còn đi con tàu này nữa thì ông chỉ là con chó".

Về đến HN mới biết mình vẫn còn là người. Trong thời gian ở chơi ba ngày với vợ chồng bác Vỹ, mấy lần Cách năn nỉ nói với bố được mở gói bọc của bác Vọng, nhưng Cục không nghe. Chỉ đến khi về đến nhà, hai bố con mới vào buồng, đóng chặt cửa, rồi hệt như cha con Quan Công thời Tam quốc, đến Phàn Thành mới mở bọc hồ lô của Khổng Minh xem Gia Cát Lượng dặn gì.
Hai bố con cùng toá hết mồ hôi. Những lá vàng hình chữ nhật nhỏ chừng bao diêm, chói loá, tưởng như trong mơ.

Cách thì thào:

- Hồi bên Cămpuchia, con cũng thấy anh trung đội trưởng đơn vị có những miếng vàng lá thế này. Anh ấy lấy trong ruột tượng Phật ở 1 ngôi chùa. Hôm sau anh ấy lại vào 1 ngôi chùa khác, nhưng không thấy ra. Nghe nói bọn Khơme Đỏ đã chặt đầu anh, lấy lại số vàng. Người ta bảo, nhặt được vàng là độc lắm.

- Vàng này khác. Đây là mồ hôi nước mắt của bác Vọng. Cả đời bác Vọng chỉ biết học hành, đỗ đạt. Người tài như bác Vọng trong ngành giao thông cầu đường nước ta chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ngày trước, lương 1 tháng của bác ấy hàng chục cây vàng. 1 vài năm là đủ sắm xe hơi nhà lầu. Con đọc thư xem bác Vọng dặn thế nào.

Cục đưa cho Cách lá thư của Vọng kẹp giữa những lá vàng.
"U vô vàn kính yêu.
Các anh chị Khôi, Vỹ, chú thím Quặc và các cháu thương mến.

Khi u và đại gia đình ta đọc lá thư này, thì con trai của u, đứa con bất hiếu, vong bàn của chi họ Nguyễn Kỳ, đang lênh đênh trên biển cả. Biết đâu, đây là cuộc vĩnh biệt. Nếu số phận run rủi, có thể Vọng sẽ sống sót. Bằng không thì coi như Vọng đã làm mồi cho cá biển. Và ngày ra đi sẽ là ngày giỗ".
Đọc mấy dòng, Cách đã cắn phải lưỡi đau điếng. Anh dừng lại gọi với ra nhà ngoài:

- Bà ơi…
Nhưng Cục đã lấy tay bịt miệng con lại.

- Đừng. Bà không chịu nổi đâu. Phải giữ kín chuyện này. Con đọc tiếp đi.
"Số vàng này do vợ chồng con mấy chục năm dành dụm. Nay gửi u hai cây để u an dưỡng tuổi già. Con gửi ba gia đình anh Khôi, chị Là, anh Vỹ chị Khiêm, chú Quặc thím Nhi, mỗi gia đình 1 cây. Riêng em Hậu 1 cây. Còn lại, mẹ nói chú Cục giữ để chuộc lại phần đất và nhà của Nguyễn Kỳ Viên mà các gia đình bần cố nông đã tịch thu hồi cải cách. Nếu vẫn còn tiền thì xây mộ cho thầy và sửa sang lại nhà thờ chi họ Nguyễn Kỳ… "

***

Người đầu tiên không kịp hưởng số vàng của Vọng để lại là bà Cử Phúc. Biết tin con trai vượt biên, bà bỏ ăn ba ngày, ốm liệt giường ba tuân, rồi mất.

Đợi hết trăm ngày bà Cử Phúc, vợ chồng Cục mới đưa lá thư và số vàng ra báo cáo với vợ chồng bác Lợi bác Vỹ.

Ông Lợi gạt phắt, không thèm nhận cây vàng Vọng gửi tặng. Việc Vọng vượt biên là 1 cú đòn đau điếng giáng xuống sự nghiệp chính trị của Lợi. Vừa thoát khỏi vụ đơn thư khiếu tố chuyện mẹ con bà Cam, Chu, giờ lại phải tường trình báo cáo với Trung ương về Vọng. Có kẻ kiếm chuyện còn vu cho ông xui em trai vượt biên để chiếm ngôi biệt thự. Có kẻ vu cho Vọng mang theo nhiều tài liệu mật về hệ thống cầu đường miền Nam để bán cho Mỹ… Ông Lợi căm Vọng, nhiều đêm nằm không ngủ, khí uất rực tràn ruột. Bà Cử mất, ông về cho phải phép, chứ ông đã chán ngấy phải dính líu đến mấy ông con bà vợ hai của bố ông đến tận cổ.

Vỹ cầm lá vàng giơ lên ngắm nghía rất lâu, cái mặt phù thũng đần ra, tựa như lần đầu trong đời ông nhìn thấy thứ kim loại kì lạ, rồi không nói gì, đưa lại cho Cục.

- Vợ chồng chúng tôi coi như đã nhận - Khiêm hiểu được ý chồng, diễn giải - Chú thím cầm lấy để xây mộ cho thầy u.

Cục nhìn cái đầu hói, mấy sợi tóc lơ phơ bết xuống trán khiến khuôn mặt Vỹ vốn đã bung bủng vàng thêm bì bì 1 vẻ đần độn, nghĩ thương ông anh trai đến thắt lòng. Hoàn cảnh gia đình Vỹ so với vợ chồng Cục, còn khó khăn hơn nhiều. Vỹ không còn đủ sức làm việc, phải về chế độ 1 cục. Nghe nói cũng là nhờ công bác Lợi với mấy nhà văn bạn bè, chứ diện chống đối, phản động, phải đi cải tạo như Vỹ, không mất quyền công dân, lại được tính thâm niên công tác để hưởng tiền về mất sức, là nhà nước quá ưu ái, nhân đạo. Lại nhớ cái hôm bố con Cục đưa bà Cử Phúc từ SG ra. Bà cụ Ba Yên đang ngồi gò tấm lưng còng xuống cái mẹt bày dăm đôi dép nhựa, đáng giá nhất là đôi dép nhựa trắng Tiền Phong, thấy có tiếng chân người, Cách lại mặc quân phục, bà cụ cứ tưởng công an thuế vụ đuổi, liền quáng quàng vơ mấy đôi dép chạy, vấp ngã, máu me đầy mặt. Khổ, lưng còng, tai điếc mà cụ Ba Yên vẫn tham công tiếc việc. Bà cụ có trợ cấp liệt sĩ của cậu Khánh, nhưng thương vợ chồng Khiêm và hai đứa cháu, vẫn muốn buôn bán nhì nhằng kiếm thêm đồng rau, quả trứng. Đến khi vào tới nhà, nhìn ông Vỹ đang nửa nằm sấp, nửa quì lom khom trước 1 cái mông thâm xì, mụn ghẻ như hoa gấm của 1 bệnh nhân trĩ, bà Cử bỗng khóc rống lên. Từ ngày Vỹ đi cải tạo về, bây giờ mẹ con mới gặp nhau. Bà Cử ôm chầm lấy con trai, không thể nhận ra cái bộ mặt phù thũng lơ phơ tóc, cái đôi mắt với đôi con ngươi bạc phếch đờ đẫn kia lại là cậu hai Vỹ thông minh đĩnh ngộ của bà. "Ối con ơi, vì sao ra nông nỗi này"? Tiếng kêu của bà Cử làm bố con Cục cũng khóc theo.

- Nhà em chỉ biết chuyển quà của bác Vọng - Nhi kiên quyết dúi cây vàng vào tay Khiêm - Các bác không cầm, chúng em có tội với bác Vọng.

- Tôi với nhà tôi coi như đã nhận rồi. Đây là chúng tôi góp để xây mộ thầy u với sửa sang nhà thờ - Khiêm còn kiên quyết hơn. Cái máu sỹ tiểu tư sản trí thức của vợ chồng Khiêm làm sao Cục lay chuyển nổi.

- Đến chán cho vợ chồng hai ông anh - Nhi nói với Cục khi cánh HN đã về - Chuyện gia đình mà các ông bà ấy cứ khoán trắng cho vợ chồng mình. Đã thế để tôi lo. Tôi sẽ chuộc lại hết phần đất và nhà cũ của thầy u, còn bao nhiêu đổi thành tiền gửi tiết kiệm. Đợi khi nào bác Vọng về, bác ấy khắc xây!

- Bác Vọng làm mồi cho cá biển rồi - Cục nói như thở hắt ra.

- Phỉ phui cái mồm nhà ông. Ai bảo ông thế?

Cục vào lục ngăn tủ, lấy ra 1 tờ báo nhàu nát, đưa cho Nhi.

- Báo này bác Là mang về cho tôi đấy. Công an người ta gặp bác Lợi xác nhận con tàu đăng trên báo là tàu vượt biên của bác Vọng. Đúng cái hôm bố con tôi và bà kẹt tàu hoả ở ga Mường Mán. Thảo nào hôm ấy bà thì ngất, miệng nôn trôn tháo, còn tôi thì máy mắt liên tục. Con tàu của bác Vọng vượt biên từ Vũng Tàu, ra đến hải phận quốc tế thì bị bọn hải tặc trực sẵn, xông lên tàu cướp của. Chúng quẳng hết trẻ con người già xuống biển, giết hết đàn ông, thi nhau hãm hiếp đàn bà con gái.

- Khiếp quá ông làm tôi sởn hết da gà…
- Thì báo người ta viết thế. Tôi bịa thế nào được.
- Thế còn cái nhà? To vật vã ba bốn tầng như thế, giờ ai ở?

- Bác Là bảo, sau khi biết bác Vọng vượt biên, bác Lợi phải bay vào ngay. Hoá ra tay Hào với cô Xoan bàn nhau lừa bác Vọng để chiếm ngôi biệt thự. Tôi biết hai người này. Ngày bà ở trong ấy cứ thì thụt đến, anh em, mẹ con, ngọt xớt. Bà muốn bác Vọng lấy cô Xoan để khỏi vượt biên. Nhưng tôi liếc mắt thấy ngay ông Hào với cô Xoan có tình ý với nhau. Tôi chỉ lo bác Vọng nhà mình bị ăn quả lừa. Y như rằng họ đã nhắm ngôi nhà bác Vọng từ lâu…

- Thế bác Lợi chịu để yên à? Chức vụ quyền hành như bác ấy đời nào chịu để mất ngôi nhà?
- Thì bác Lợi đã bay vào giải quyết…Trong họ nhà mình, còn ai có chức quyền, lại khôn ngoan lọc lõi, bằng bác Lợi?
- Thôi, mẹ cái Đất cứ lo cho tôi chuyện đất cát từ đường như bác Vọng đã dặn. Vạn nhất mà bác Vọng xấu số không về thì vong linh bác cũng phù hộ cho…

Rất may, vào đúng dịp ấy, làng Động có 1 chiến dịch di dân tự do vào vùng cao su Sông Bé và vùng cà phê Lâm Đồng.

Lần đầu tiên, nhiều người làng Động nhận ra cái làng của họ quá chật. Xưa kia, cáo chết ba năm còn quay đầu về núi. Người làng Động dù đi đông đi tây, nửa đời, hoặc cuối đời vẫn bằng mọi cách tìm về làng, sửa lại nếp nhà, chăm tiếp mảnh vườn, rồi chí thú sống với chúng, chết với chúng. Nhưng đến đận này thì khác hẳn. Sau những trận đói vàng mắt, những vụ thu hoạch của HTX mà người đi quét lúa rơi, đi mót lúa sót, nhiều hơn cả người đi gặt, người ta chán ngấy ruộng đồng, bỏ đi buôn, bỏ ra HN làm người ở, phu hồ, buôn ve chai… Vụ Chỉ thị 100, cho nông nghiệp cả nước khoán sản phẩm, kéo được vài gia đình trở về. Nhưng nhận dăm sào ruộng khoán, cũng cầm bằng như làm thuê. Trừ công cày bừa, giống, phân, thuốc trừ sâu, thuỷ lợi phí, thuế nông nghiệp, tiền cho ban quản trị đãi khách, họp hành… mỗi sào còn được đăm chục cân. Rõ là ông thầy ăn 1, bà cốt ăn hai. Cá năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mà cái bồ vẫn trống rỗng.

Thế nên nói như Ngạnh Vẩu: Tam thập lục kế, tấu vi thương sách. Ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn. Cái anh chàng nhà quê 1 cục mà giờ học được ở đâu ba chữ Hán, ra ve thâm nho. Lại chuồn ngay chính trên quê hương mình, mới ngược mớ đời.

Số là Ngạnh Vẩu, sau mấy năm đi bộ đội, về phục viên, được cơ cấu làm chủ nhiệm HTX. Vụ làng Động khoán chui năm 1979, do Ngạnh Vẩu chỉ đạo, bị đài báo phanh phui, cả bộ sậu lãnh đạo địa phương, trong đó có cả Nguyễn Kỳ Quặc, phó chủ nhiệm phụ trách chăn nuôi, bị huyện kỷ luật.
Chán quá, Ngạnh Vẩu bỏ làng vào Sông Bé chơi với 1 người bạn trước cùng quân ngũ, nay đang làm công đoàn nông trường cao su Phú Riềng. Hai tháng sau Ngạnh trở về quê, bán thốc bán tháo nhà cửa vườn tược, đưa vợ con vào Phước Long lập nghiệp.

Ngạnh tuyên bố xanh rì: "Thì ra, ngày học phổ thông mình từng nghe: Cao su đi dễ khó về. Khi đi trai tráng khi về bủng beo… Rồi, Bán thân đổi lấy đồng xu. Thịt xương vùi xác cao su mấy tầng… Toàn là lối tuyên truyền lấy được. Ngày xưa thì ở đâu chẳng sốt rét, thương hàn? Cánh thợ xẻ làng Động chết vì ngã nước trên Võ Nhai, Đại Từ hàng đống đấy thôi. Lử khử lừ khừ, chẳng Đại Từ thì cũng Võ Nhai, là gì? Trong Sông Bé cơ man nào là đất. Làm ba tháng, sống cả năm. Dễ sống bằng vạn cái làng Động nhà mình. Mười ba gia đình, bỏ làng theo Ngạnh Vẩu vào Sông Bé.

Tám gia đình khác theo Cu Sộp vào Lâm Đồng. Vợ chồng, con cái từng dây từng đống, chồng ba lô, bao tải, vợ tay nải, quang sọt, con cái đứa lớn cõng đứa bé, đứa choai choai dắt đứa nhỏ, lũ lượt kéo nhau ra ga Hàng Cỏ theo tàu vào Nam.

Cả 1 góc xóm Thượng kéo đi hết. Sáu bẩy nhà liền kề đóng cửa im ỉm, để vườn hoang cho chó ỉa, rêu, cỏ mọc vào tận cửa nhà Các xóm khác, lỗ chỗ từng khoảnh, từng chòm, vườn không nhà trống. Nhà Hiển Hồng, bốn đứa con gái, đứa nào cũng học giỏi, bị bố mẹ bắt nghỉ học để đi Sông Bé, chị em ôm nhau khóc như ri. Vợ chồng nhà Hoán Bang, nhà ngói, sân trị bể cạn đề huề, cũng bỏ lại cho ông bố già và thằng em tật nguyền, dắt ba đứa con ra ga Hàng Cỏ. Cứ dắt díu nhau đi kiếm ăn cái đã. Vài ba năm, dăm bẩy năm, khấm khá thì ở lại khó khăn thì lại về quê theo đít con trâu, bám sào ruộng hợp tác.

Bị Ngạnh Vẩu thuyết phục, Ngộc, tức Lưu Bích Ngọc, cậu em trai đa tình, đa dâm của Ngạnh, chuyên gia uống rượu pha mủ xương rồng làm cho huyết áp tăng vọt mỗi lần đi khám tuyển bộ đội, cũng nổi máu ly hương. Cùng đi bộ đội với Cải 1 đợt, Ngộc được phân vào bộ đội cao xạ tỉnh, đánh nhau đúng 1 trận với máy bay Mỹ thì hiệp định Paris được ký kết. Vậy mà không hiểu sao, khi xuất ngũ, Ngộc cũng có được cái giấy chứng nhận thương binh loại bốn, được hưởng trợ cấp hằng tháng. Ngộc về làng, ngựa (thực ra là dê) quen đường cũ, người đàn bà đầu tiên mà anh muốn ngủ là Nhi.

Nhi, Nhài, Lành…, những vợ bộ đội ngày trước từng ngủ với Ngộc, thậm chí Nhi còn có thai với Ngộc, luôn gợi cho Ngộc nỗi thèm khát 1 thời.

- Tôi không thể quên được Nhi. Đêm ngủ, cứ nghĩ đến Nhi là thèm nhỏ dãi… - 1 lần nhân lúc Cục đi vắng, Ngộc sang nhà, vỗ vào cái mông cong tớn, nần nẫn như mông nái xề của Nhi, giọng sàm sỡ.
- Nghiêm cấm đấy nhớ - Nhi quay ngoắt, trừng mắt cảnh cáo Ngộc - Này, tôi nói thật nhớ. Ông Cục nhà tôi lấy đĩ về làm vợ chứ không lấy vợ về làm đĩ đâu mà tưởng bở.
- Nhưng mà ông Cục bằng thế nào được Lưu Bích Ngọc này…
- Ối giời ôi! Làm sao bì phấn với vôi. Bì l. con đĩ với môi anh thợ kèn. Này, tôi bảo thật nhé. Anh chỉ đáng xách dép cho ông Cục nhà tôi. Với lại ông Cục không phải là cái loại đàn ông dễ để cho vợ ngứa nghề. Hãy chôn chuyện cũ đi. Di xuống đất rồi vứt vào chuồng xí. Đừng có đụng vào con dâu nhà họ Nguyễn Kỳ. Thằng Cách, thằng Tác nó thì lấy dao rạch mặt.
- Khiếp! Nói mà phát hãi… Nhưng nhớ không chịu được… Hay là… bắn súng không nên thì đền đạn…
- Nói thế thì được - Nhi hạ hoả. Nghĩ ngợi 1 lúc rồi bảo - Hãy gọi tôi bằng dì tôi sẽ gả con Ruộng cho.
- Thật không? Dì Nhi gả Ruộng cho tôi nhé… Mắt Ngộc sáng quắc. Ngộc không ngờ mấy năm đi bộ đội về, Ruộng đã lớn phồng lên, hai vú như hai quả bưởi, bộ mông căng tròn, lúc nào cũng chọc vào mắt Ngộc. Rất nhiều lần, Ngộc đứng lấp sau búi tre ngắm nhìn trộm Ruộng vớt bèo ở bờ ao. Hai ống quần kia vén cao lên tí nữa thì đã mắt phải biết. Nhớ đến ngày học cấp 1 hay đi rình phụ nữ tắm ao nhà ông Xã Duyên, Ngộc cứ ao ước giá nhìn thấy Ruộng tắm truồng: Phải biết là ngồn ngộn, phây phây. Chao ôi, được ngủ với Ruộng thì sướng hơn tiên. Sướng gấp vạn lần bà dì ghẻ đanh đá cá cầy kia. Nghĩ thế, Ngộc đã râm ran khắp người. Tưởng nói chơi, nào ngờ Nhi trở thành mẹ vọ của Ngộc nửa năm sau đó.

Người ngầm phản đối duy nhất cuộc hôn nhân này là Cục. Cục vẫn ức Ngộc ngày trước đã ngủ với Nhi. Nay lại lấy con gái mình thì thiên hạ họ cười vào mũi. Nhưng mà Nhi điều khiển được chồng. Chuyện cũ, ôm vào người cho nó sinh bệnh. Chi cần em yêu mình, chung thuỷ với mình là được rồi. Không yêu, không chính chuyên mà có những ba đứa, con Đất con Hợp, thằng Tác. Mình không nghe cái làng Động này có câu vè rất hay về tên các con ông Cục đấy à? "CÔNG CẢI CÁCH RUỘNG, thành ĐẤT HỢP TÁC. Tưởng thóc của mình. Hoá toàn rơm rác". Đúng là mình có hai vợ, bẩy đứa con không? Họ bảo, ông Cục là con cụ Cử Phúc có khác, đặt tên con rất thâm nho. Tưởng ông ấy ghi nhớ công lao CCRĐ, công lao của HTX, nên mới đặt tên con thế, ai dè ông ấy xỏ xiên. Nông dân đừng có tưởng bở. Tưởng cải cách, giảm tô, ruộng đất về tay mình, hoá ra của thiên lại trả địa, mọi thứ về hợp tác hết, công của nông dân thành công cốc. Bây giờ mình muốn giữ con Ruộng chứ gì? Thách đấy. Hợp tác tan rồi, người ta đang bỏ ruộng kéo nhau ra tỉnh. Con Ruộng đến tuổi lấy chồng rồi. Để trong nhà như chứa bom nổ chậm, mình chớ có trách.

Đến nước ấy thì Cục không ưng cũng không xong. Vá lại, cô Ruộng lâu nay cũng ngầm để ý Ngộc. Hai nhà lại liền kề. Đống rơm đã đánh sẵn. Xoè que diêm là cháy đùng đùng.

Gả Ruộng cho Ngộc, Nhi đã ngầm nuôi ý định thu lại khu đất các gia đình ông bà nông dân tịch thu hồi cải cách, trà về cho Nguyễn Kỳ Viên. Quả nhiên, khi Ngộc và Ruộng có ý định theo Ngạnh Vẩu vào Sông Bé, chính là lúc người con dâu của chi họ Nguyễn Kỳ thực thi toàn bộ ý định của mình. Với sự giúp sức tận tình của Ngộc và Ruộng, tất nhiên họ cũng được hưởng quyền lợi đích đáng, chỉ cần hơn 1 phần hai số vàng Vọng để lại, châu đã về Hợp Phố, toàn bộ khu khuôn viên của Nguyễn Kỳ Viên bị mất trước đây không những đã được thu hồi lại mà còn mua thêm được 1 sào tám thước đất thổ cư của hai gia đình liền kề.

Chuộc lại được đất rồi, Nhi muốn nhân cơ hội, sửa lại ngôi nhà thờ, khai lại cái hồ bán nguyệt và dựng lại nguyên trạng cái cung Nguyễn Kỳ Viên. Nhi đã đi hỏi những người già trong làng về cái cổng, nhờ người có hoa tay vẽ lại hình dáng, viết lại cả ba chữ nho ngày xưa.

Cục bảo:

- Chuộc được đất của tổ tiên là bước đầu thành công rồi. Nhưng sang bước hai mới là quan trọng. Mình là con thứ, lại là con nuôi con đòi, nói trắng ra tức là đứa ở… Không thể tự ý xây nhà thờ được.
- Nhưng tôi thấy bà với các bác, có ai coi mình như con nuôi đâu? Nếu kể công với nhà này thì mình xứng đáng xếp thứ nhất. Hai bác đi kháng chiến, 1 bác đi Nam. Chỉ còn nhà mình ở lại hương khói, nuôi bà và cô Hậu. Trong mấy người con, bà chỉ thích ở với vợ chồng mình.
- Mà chính tôi cũng cứ nghĩ mình do u đẻ ra đấy chứ. U cứ 1 mực bảo, tôi với bác Vọng là anh em sinh đôi.
- Thế thì mình còn sợ gì điều tiếng. Các bác ấy không lo được thì mình đứng ra xây nhà thờ. Tiền bác Vọng đã để lại sẵn rồi. Mình chỉ bỏ công sức…

Nhi cứ sùng sục thúc ép Cục bao lần. Cái số Cục được nhờ vợ. Đời Cục có hai người vợ, thì được cả hai. So với Bính, Nhi không dịu dàng bằng, nhưng lại xốc vác, đảm đang hơn. Lo cho con Ruộng chồng con nhà cửa đề huề rồi, Nhi lo tiếp vợ cho thằng Cách. Cách lấy Bống, con bà Đạt lớn, tức là em gái nhà Bang, mấy năm trước theo chồng là Hoán vào nông trường cao su Phú Riềng. Vừa cưới vợ xong, nghe theo chị Ruộng, chị Bang rủ rê, Bống ráo riết giục Cách xin vợ chồng ông Cục cho vào Sông Bé làm ăn. Nhi tán đồng ngay, cho hẳn hai vợ chồng Cách năm chỉ vàng, phần của bác Vọng cho, mang đi làm vốn. Lo cho con riêng của chồng, như Nhi, làng Động chỉ có 1.

Nhưng rồi việc xây nhà thờ vẫn chưa thành.

Vợ chồng hai ông anh Khôi, Vỹ không có ý kiến, nói tuỳ chú thím muốn làm gì thì làm. Nói thế, có bằng thách đố, bố ai dám tự tiện. Thời buổi khó khăn, các bác ấy phải lo miếng cơm manh áo, lo học hành công việc làm ăn cho con cái, chưa ai nghĩ đến chuyện tâm linh, chuyện mồ mả tổ tiên, từ đường gia tộc.

- Giữ vàng trong nhà tôi hãi lắm thầy nó ạ!

Nhì nằm bên chồng mà cứ thở dài thườn thượt. Bằng mọi cách Nhi đã dúi vào tay bác Là, bác Khiêm mỗi người 1 cây vàng, giải quyết xong xuôi quà cáp bác Vọng nhờ chuyển rồi. Chỉ còn số vàng của bà Cử Phúc và cô Hậu cộng với ba cây còn lại sau khi đã chuộc được đất. Nghĩ nát nước mà vẫn không biết sử dụng ra sao - Hay là đem đổi hết thành thóc, rồi tôi góp họ, hoặc cho vay lấy lãi, dành tiền tậu cái xe đạp cho bọn trẻ đi học, thầy nó nhỉ?

- Làm thế khác nào mình lợi dụng để vun vén làm giàu cho riêng nhà mình - Cục gạt phắt.
- Thế thì tôi mang ra HN gửi cô Tài Tiến, chứ không để vàng ở nhà được đâu. Về đằng ngoại, cô Tài Tiến với u là con cô con cậu. Ngày trước cô có tiệm vàng lớn nhất phố Hàng Đào chú ấy có xe khách chạy tuyến HN - Phương Đình. Từ ngày nhà nước cấm buôn bán vàng, cô ấy vẫn buôn chui đấy. Gửi cô Tài là chắc ăn nhất.
- Mẹ mày muốn làm gì thì làm - Cục xoay người, thọc bàn tay lành vào vú Nhi, vê cho đầu vú săn cứng như hạt nhãn. Ấy là dấu hiệu Cục đã phê, sẵn sàng thoả hiệp vô điều kiện.
Ngày hôm sau, Nhi ôm cái bị cói trong có sáu cây vàng gói trong cái áo rách, để lẫn với mớ khoai sọ, bắt xe ra HN.
Vừa gặp cô Tài Tiến, Nhi đã vội kéo bà cô vào trong buồng, thì thào to nhỏ. Bà Tài Tiến hốt hoảng nhìn xung quanh, chối đây đấy:
- Chục năm nay cô có nhìn thấy vảy vàng nào đâu? Đừng gieo tai hoạ cho nhà cô, nguy hiểm lắm. Vàng là thứ hàng quốc cấm, không được buôn bán. Không có vảy vàng nào mà tài chính thuế vụ cứ vào khám nhà luôn xoành xoạch. Moi hết bàn ghế, giường tủ, gối nệm, góc bếp, nhà xí… Chổi cùn rể rách không có cãi gì là họ bỏ qua. Tởm lợm nhất là cái thằng Sành, con rể lão Thước tổ hợp cắt tóc Cờ Đô ở Phố Huế. Nó làm chức gì ở cơ quan thuế vụ to lắm. Lần nào nó cũng ghé cái mồm thối hoắc như nhà cầu vào mặt cô và bảo:
"Bà không buôn vàng và thuốc phiện lậu thì tôi đi đầu xuống đất! ứ đợi đấy, có ngày tôi sẽ cho bà lấm lưng, trắng bụng chẻ hoe cái tổ con chuồn chuồn cho coi". Họ cứ nghi cô vẫn còn buôn vàng. Giời ôi, vụ kiểm tra hành chính Z30 vừa rồi, suýt nữa là cô đi tù…
- Z30 là gì hả cô?
Thì họ đặt ra mật danh mật diếc gì ấy, chứ cô biết thế nào được Nói nôm na là kiểm tra hành chính những gia đình giàu có. Mấy trăm gia đình HN buôn bán có máu mặt, mới xây nhà hai tầng trở lên trong vài năm nay đều nằm trong diện phải kiểm tra hành chính. Tiền của chúng mày ở đâu ra? Chúng tao đi đánh Mỹ, giải phóng đất nước, chết mấy triệu người mà bây giờ cơm độn bo bo cũng không có mà ăn, cớ sao chúng mày xây nhà lầu, mua xe máy, ăn trên ngồi trốc, con cái chúng mày nhơn nhơn ăn diện? Chúng tao đang phấn đấu cả xã hội đều vô sản ngang nhau mà chúng mày dám rắn mặt chống lại à? Thế là công an, dân phố đến bao vây khám nhà, tịch thu tài sản. Trẻ con, người già khóc như ri. Còn ghê hơn cả thời CCRĐ. Mấy người oan ức, tiếc của quá đã uống thuốc sâu, treo cổ tự tử…
- Thật thế hả cô? Ở quê chúng cháu chả biết gì…
- Nghe nói cái lão Chiến Thắng Lợi, người quê nhà mình có chân trong ban chỉ đạo cái vụ này đấy. Ông ta vào trong SG chỉ đạo cải tạo công thương, rồi ra Bắc làm tiếp vụ Z30… Thiên hạ đang kháo ầm lên: "Nhà thơ đi làm kinh tế. Thống chế thì đi đặt vòng". Toàn làm chuyện ngược đời. Khó sống lắm cháu ạ. Mang vàng về mà đổi thành thóc cho vay lấy lãi. Cô không dám giữ hộ cháu đâu…
Nhi đành ôm vàng về, đào hố chôn dưới chân ông táo trong bếp. Nửa tháng sau, nghĩ thế nào lại đào lên, bí mật mang lên phố Phương Đình đổi hết thành tiền, gửi vào quỹ tiết kiệm của xã.
Sau này, tức hai năm sau, Nhi mới rụng rời nhận ra rằng, đây là hành động ngu xuẩn nhất của đời mình. Việc nông nổi đổi vàng ra tiền rồi gửi tiết kiệm, đã mặc nhiên phá huỷ toàn bộ ý định xây dựng lại từ đường dòng họ mà ông kỹ sư công chánh Nguyễn Kỳ Vọng đã ký thác trước khi tự nguyện làm mồi cho cá biển.

Vụ đồi tiền năm 1985, đã biến những cục vàng thành đất sét, biến tất cả những bao tải tiền cũ thành giấy lộn.

Ông Nông Ích Ló, cậu ruột chị Là, quê Định Hoá, Thái Nguyên, vừa bán mười hai con trâu, cơ nghiệp cả 1 đời làm lụng vất vả, để giành tiền làm nhà. Chưa kịp mua gỗ, mua vôi, gạch, lá cọ, thì đổi tiền, mười đồng cũ ăn 1 đồng mới. Ba tháng sau, tiền đổi mười hai con trâu không mua nổi 1 con gà. Đau quá, tiếc của quá, ông Ló ăn lá ngón tự tử.

Nhi còn đau đớn hơn cả ông Ló cậu ruột chị Là. Bởi vì tiền vàng này là của dòng họ, là của bác Vọng nhờ giữ hộ. Nhi là con dâu họ. Lại là con dâu nuôi. Từ ngày về làm dâu chi họ Nguyễn Kỳ, Nhi luôn làm mọi cách để chồng mình không bị tủi hổ là đứa con nuôi con đòi. Nhi có ý thức và quyết tâm sắt đá sẽ làm chồng con rạng danh với họ hàng, làng nước. Vậy mà, bỗng chốc Nhi làm tiêu tán cả 1 sản nghiệp. Nhi bán trời không văn tự. Nhi giết chồng con, anh em, họ hàng không dao. Nhi mất ăn mất ngủ, người gầy tọp. Rất nhiều đêm Nhi nằm mơ. Toàn giấc mơ lạ mà người Nhi thường gặp là 1 bóng trắng toát, lúc thì trồng cây chuối, đi đầu xuống đất, lúc thì xoã tóc bước từ dưới đáy ao lên. Người ấy nói như khóc, bảo rằng không có chỗ ở, nghe nói con cháu sắp xây nhà mà chờ mãi không thấy.

Thế rồi 1 đêm, vào quãng gần sáng, Nhi bỗng thấy người áo trắng hiện về gọi đúng tên mình. Hình như có chuyện gì gấp gáp lắm, đến nỗi Nhi không kịp nói với Cục, không kịp nhắn lại với các con. Theo người áo trắng, Nhi đi vòng qua bờ ao, đến chỗ cây dừa đổ, Nhi còn dừng lại soi mình xuống bóng nước. Nhi định lội xuống, nhưng nghĩ thế nào, chỉ vục nước lên rửa mặt, vuốt lại tóc, rồi theo hút bóng người áo trắng đến nhà thờ. Dọc đường, suýt nữa thì Nhi vấp ngã bởi 1 vật cản chắn ngang đường. Nhi cúi xuống, nhận ra đó là sợi dây thừng trâu thằng Tác mới thay lúc chiều. Thuận tay, Nhi cầm theo luôn.

Thấy tiếng chân người, đàn chuột chạy túa lên mái nhà, kêu chí choé. Tiếng tắc kè từ cây muỗm cổ thụ điềm năm tiếng. Bóng áo trắng đến khe cửa nhà thờ thì mất hút. 1 ô cửa trống như đợi Nhi sẵn. Chị lách vào nhà thờ như 1 cái bóng. Hoàn toàn như 1 kê mộng du, Nhi bật lửa, thắp ba nén hương, quì trước ban thờ, miệng lẩm bầm: "Con có tội. Con là kê phá tán cơ nghiệp chi họ Nguyễn Kỳ. Con xin về hầu chịu tội…" Rồi rất chậm rãi, Nhi trèo lên chiếc ghế đẩu, luồn sợi dây thừng qua thanh xà ngang…

***

Nhờ mùi hương phả trong đêm khuya, Cục nhanh chóng phán đoán ra Nhi có thể đang ở trên nhà thờ.

Trước đó chừng dăm bẩy phút, khi tỉnh dậy, không thấy vợ nằm bên, máu nghi ngờ ghen tuông đã tràn khắp người Cục, đầy ứ 1 cục như bát nguội chèn ngang cổ họng, nuốt mãi không trôi. Cục nghi cái tính lẳng lơ của Nhi lại trỗi dậy. Hơn tháng nay tính khí Nhi rất lạ. Lúc nào cũng có vẻ lên lút giấu giếm chồng. Lạ nhất là mỗi lần Cục thèm muốn, Nhi cứ đẩy hắt ra. Chó chê cứt là có vấn đề. Cục lại nhớ cái đận CCRĐ. Nếu Cục không sớm cảnh giác, rất có thể Bính đã ngã vào tay lão đội Phèng Cửu Tựu. Giờ với Nhi càng chớ có lơ là. Nhi còn phây phây mà Cục thì đã có tuổi, nhiều khi lực bất tòng tâm. Biết đâu có 1 thằng đực lạ mới xuất hiện ở làng Động? Đang ngủ bên chồng mà len lén bỏ đi là cớ làm sao? Loạn rồi. Nó cắm sừng lên đầu mình rồi.

Ánh đèn pin trong tay Cục khi đến trước nhà thờ bỗng loé lên, lia loang loáng. Khi ngửi thấy mùi hương, biết chắc Nhi ở bên trong, Cục liền rảo chân, rọi hẳn đèn vào nhà thờ.

- Trời ơi, ai kia? Ai đang treo cổ lủng lẳng trước ban thờ?
Cục rụng rời chân tay, vấp ngã ở bậu cửa. Nhi, Nhi ơi! Sao em lại làm thế? Có ai làm gì em mà em lại nỡ huỷ hoại đời, nỡ bỏ mấy bố con anh? Ới các con… Đất, Hợp, Tác ơi! Lên đây cứu mẹ!
Cục hét lên, nhảy bổ đến bên vợ. Cuống cuồng, nhưng khôn khéo, Cục trèo lên chiếc ghế đẩu ôm thốc Nhi lên.

THỜI CỦA THÁNH THẦN - Tác giả: Hoàng Minh Tường - Chương 26

(Trích hồi ký "Kẻ tha hương")

Buổi chiều Vũng Tàu cuối mùa mưa ấy sao nhiều hoa và nắng đến thế. Cứ ngỡ như cái nóng của ca xứ sở dồn tụ về đây hoa của mọi miền ùa về đây để đưa tiễn 1 đứa con xa xứ. Những bông điệp cuối mùa đỏ như máu. Hoa giấy đủ màu, từ trắng ngà đến da cam, tím Huế, xơ xác bung từng búi, từng chùm như giấy màu học trò. Và hoa sứ trắng muốt, đỏ bầm trong những vòm xanh, toà hương nồng nàn như không còn cơ hội nào dâng hiến.
Giờ này u tôi và bố con chú Cục trên con tàu Thống Nhất chắc đã ra tới Tháp Chàm? Chỉ vài ngày nữa u và mọi người sẽ biết tôi vượt biên. Biết đâu, khi họ xôn xao oán thán, trách cứ thương cảm… thì tôi đã chìm nghỉm giữa biển khơi, làm mồi cho cá…

Tôi đặt cược cho cuộc đi này năm ăn năm thua. Vì có quá nhiều người vượt biển không thành. Kia, nhỡn tiền trước mắt tôi kia, ngay trên đường Võ Tánh, gần bãi Dứa, 1 bãi tắm xinh đẹp cạnh Niết Bàn Tịnh Xá, bốn xác chết vừa từ ngoài khơi dạt vào. Nghe mọi người kháo nhau, dọc bờ biển Núi Đúng 0 giờ ngày X, tức là chỉ còn không đầy mấy giờ nữa tôi sẽ có mặt ở bến Cửa Cạn.

Con tàu định mệnh chờ chúng tôi ở ngoài bãi sú vẹt. Trong đêm tối, nó lù lù 1 khối đen như bóng tử thần. Dù là tàu bán công khai, có người bảo lãnh, chúng tôi vẫn phải lén lút theo ghe chèo chạy bằng máy đuôi tôm đến tàu từng tốp 1. Trong ánh đèn pin loang loáng, lố nhố người lớn trẻ con mang vác đồ đạc, bồng bế dắt díu nhau. Chủ tàu đôi chiếc nón nỉ, không rõ mặt, chỉ nghe giọng miền Trung nằng nặng, ồm ồm. Bãi đỗ đã được mua trước, có an ninh canh chừng. Chủ tàu đưa danh sách những người còn thiếu vàng cho an ninh.

An ninh gọi tên những người còn thiếu. Ai không có nộp sê phải ở lại. Không thấy đọc tên mình, tôi biết Khuất Sỹ Hào, sau khi tôi đưa giấy tờ nhà, đã giữ đúng lời hứa, lo cho tôi đi chuyến này trót lọt.

Gần đến giờ xuất phát thì tàu bị mắc cạn. Tiếng la hét ầm ầm phản đối chủ tàu. Tiếng đông cơ gầm rú, chân vịt sục nước hối hả. Lúc sau mọi người nhận ra đó là mánh khoé của chủ tàu để kéo dài thời gian chờ người nhà. Khi toán người nhà cuối cùng của chủ tàu tới, cùng với sự hỗ trợ của tàu kéo, con tàu bắt đầu rời bãi sú vẹt, nhằm hướng hừng đông thẳng tiến.

Tảng sáng, nhưng tàu vẫn chưa ra đến hải phận quốc tế. Nhìn mãi vẫn chưa dứt khói tầm chiếu của ngọn hải đăng trên mỏm Núi Nhỏ. Tôi có cảm giác như tàu đang vòng trở lại.

Hay là 1 trăm chín mươi mốt con người trên con tàu này đang bị lừa? Đi mãi mà toà Bạch Dinh và tương Thánh Pôn sau mũi Nghinh Phong vẫn còn trong tâm mắt.

Bây giờ thì tôi đã nhìn ngắm rõ con tàu mang biển số VT 1413. Chín nút. Con số đen. Nhưng nhìn kỹ thì con tàu đánh cá này thuộc diện chỉ đánh bắt ven bờ và sắp đến kỳ thải loại.

Nước sơn xanh hai bên mạn tàu đã tróc từng máng: Thành tàu và sàn tàu có chỗ ván đã mục được vá víu lại bằng nhũng thanh gỗ đẽo sơ sài. Con tàu rệu rã này làm sao vượt nổi biển Đông để đến In đô hay Úc. Tôi cứ vân vi 1 nỗi sợ mơ hồ.

- Moi người xuống hết hầm tàu đi – Chủ tàu luôn mồm quát tháo - Đ. mẹ, ông nội này muốn bướng hả. Ống nhòm tàu biên phòng phát hiện không phải tàu đánh cá, họ đuổi theo liền. Muốn ngồi trên boong ngắm kiểng, hả? Vậy thì ông nội lấy lưới phủ kín giùm đi. Lát nữa hết phao zêrô tha hồ mà ngắm kiểng.

Giờ thì tôi mới nhìn rõ chủ tàu. Mặt bự thịt, mắt ti hí, râu cằm lưa thưa, đi chân chữ bát. Ông ta chừng ngoài năm mươi, tên là Kiếng. Cùng phụ giúp chủ tàu là hai tài công tên là Cón và Hiêu, cùng to như hộ pháp, ngực vồng như tảng gỗ lim bắp tay nâu bóng vặn như chão bện. Riêng anh thợ máy tên Thạch thì lại bé loắt choắt, nhưng rất lanh lợi. Người phụ nữ tóc xoăn tên Chiên lúc nào cũng cặp kè với chủ tàu, còn khá trẻ đáng tuổi con, cao dong dỏng, có đôi mắt sắc như dao rất quyến rũ.

Sau này, khi lâm cuộc, tôi mới biết, chủ tàu hoàn toàn không biết gì đến nghề đi biển. Nghe chú thợ máy nói, Kiếng vốn là cán bộ đi tập kết, đã có vợ ở quê, nhưng ra Bắc lại lấy vợ mới.
Sau năm 1975, Kiếng đưa vợ con về quê, được giữ 1 chức lãnh đạo phòng phong nghiệp huyện. Do buôn bán gian lận hay sao đó, Kiếng bị kỷ luật, bị cách chúc. Cũng thời gian này Kiếng bắt bồ với Chiên, người đàn bà buôn cá có đôi mắt dao cau quyến rũ. Quá bất mãn và chán nản, Kiếng quyết bỏ vợ con, quê hương, rủ Chiên vào Vũng Tàu. Gặp người bà con làm ở sở Vôi Vụ mách mối, Kiếng hùn tiền mua tàu đánh cá, đứng ra làm chủ tàu, móc nối với an ninh, tổ chức người vượt biên.

Khi bờ biển Vũng Tàu đã mờ xa, mọi người bỗng nháo nhác thì tài công Cón phát hiện ra 1 con tàu biên phòng đang phóng đuổi. Chủ tàu cuống cuồng, hét thợ máy và tài công mở máy hết cỡ, con tàu xả khói đen mù mịt trốn chạy. Cuộc rượt đuổi chỉ dừng lại khi tàu đã ra tới hải phận quốc tế.

1 cơn mưa bất chợt ập đến. Những ngọn sóng lừng lũng từ đâu bỗng đổ ập xuống. Con tàu chao đào, nhảy cẫng lên cao rồi rơi hẫng xuống, như chui hun hút xuống đáy đại dương.

Tự nhiên tôi bỗng nhớ tới cái nồi cám lợn u tôi nấu ngày xưa. Cám sôi lục bục, tạo ra những lỗ sâu hoáy, những đinh bọt cao ngang miệng nồi. 1 vài chiếc vỏ trấu giữa nồi lúc bị bọt tung lên cao, lúc chìm nghỉm dưới xoáy sâu. Con tàu của chúng tôi lúc này cũng hệt như vỏ trấu trong nồi cám sôi của u tôi ngày xưa. Nó sẽ chìm bất cứ lúc nào.

Mưa mịt mù không thấy trời. Nước mưa, sóng biển tràn qua sàn tàu, chảy như xối xuống hầm tàu. Đàn ông hò nhau tát nước bằng tất cả những phương tiện có được. Hết đợt mưa này lại ào đến trận mưa khác. Trời mù đặc trên đầu và biển đen đặc dưới chân. Cũng là lúc màn đêm ập xuống và con tàu chết máy.

Tôi đã quá khiếp nhược và mệt lả vì nỗi sợ hãi bị bắt trở lại vì nôn oẹ mật xanh mật vàng. Tất cà những người xung quanh tôi, người lớn, trẻ con ai cũng nôn mửa, mặt xanh mét, nằm ngồi chồng lên nhau như những đống rẻ rách. Con tàu vốn dùng để câu cá ngừ vùng biển gần, có chiều rộng hơn ba mét, chiều dài khoảng mười lăm mét, chồng chất gần hai trăm con người mới đủ thứ đồ đạc, vật dụng, giờ lại nồng nặc mùi người mùi phế thải theo đường miệng nôn, trôn tháo… càng trở thành 1 cái hòm khủng khiếp. Trong ánh sáng ngọn đèn đỏ quạch ngóc hầm, tôi nhận ra 1 đôi mắt xanh lè như mắt mèo. Không ai khác, ngoài gã trai có bộ mặt choắt với cái mũi khoằm và đôi mắt lồi mà chủ tàu đã văng tục vào mặt lúc mờ sáng. Gã là người duy nhất trong đám người vượt biên không bị say sóng. Chính tôi cũng nổi máu nghi ngờ rằng mục đích của gã không giống như chúng tôi. Gã lên tàu để làm 1 việc khác. Hay gã chính là người của an ninh gài vào? Gã mắt lồi không biết tôi đang theo dõi gã, nên gã mặc nhiên thọc tay sờ nắn người đàn bà đang nằm ôm đứa con gái nhỏ. Chị đi cùng hai đứa con gái sinh đôi suýt soát năm, sáu tuổi đứa chị cao gầy, đứa em thấp và mập hơn. Hôm qua đứa em uống phải sữa thiu, đi ngoài đến mệt lả, sau đó sốt nóng đùng đùng. Người mẹ lo cho con đến trũng mắt, mệt quá, ngủ say như chết. Chị ta không hay biết rằng có kẻ đang sờ soạng lục lọi mình, hay cũng hứng chí vì được ve vuốt. Tôi mở cuốn sổ bé bằng bàn tay, được đóng bìa ni lông, có phecmơtuya kéo. Đây là cuốn nhật ký tôi đã chuẩn bị sẵn, để ghi lại cuộc hành trình tha hương, giống như phần hồi ký tôi viết ngày tôi rời đất Bắc, năm 1954, vào SG để sống cuộc đời tự lập. Cuốn nhất ký này được bắt đầu vào 0 giờ ngày X.

Để đề phòng cuốn sổ có thể bị sóng biển cuốn trôi, hoặc nhòe mờ không đọc được, tôi còn có 1 sợi dây dù buộc ngang người. Mỗi ngày 1 thắt 1 nút để ghi nhớ ngày tháng lênh đênh trên biển. Kinh nghiệm này tôi học được ở Rôbinsơn Crusô, nhân vật của Danien Đêphô.

Ngày… tháng… năm…

Tàu vẫn bị chết máy. Thợ máy Thạch và mấy người biết nghề cơ khí xoay trần dưới hầm tàu, đánh vật hàng ngày trời vẫn không làm cho động cơ khởi động nổi. Tháo máy ra mới biết hầu hết phụ tùng đã bị thay thế. Trước khi bán tàu cho Kiếng, chủ tàu cũ đã rút hết ruột máy, mua ngoài chợ trời 1 máy rỏm lắp vào. Không có phụ tùng thay thế. Đành bó tay.

Thợ máy Thạch buồn rũ, bỏ ăn, suất ăn mà cả tàu chắt bóp ưu tiên nhường, chú nhìn mọi người đầy hối hận như chính chú có lỗi.

Đành phải chờ tàu cứu hộ, hoặc đón tàu quốc tế trợ giúp. Có 1 con tàu trắng treo cờ Panama. Đàn bà, trẻ em nhảy cá lên boong tàu, đốt lửa, lấy khăn trắng vẫy. Nhưng bọn thuỷ thủ chỉ ngó lơ, bỏ đi.

Kiếng lôi từ dưới hầm tàu lên 1 khẩu M16 bóng loáng vẫn những băng đạn vàng choé. Gã chĩa súng lên trời nổ ba phát đuổi theo chiếc tàu Panama, khiến ai nấy xanh mắt.

Thằng này từng là xạ thủ khét tiếng miền Đông thời chống Pháp. Khẩu này mua hai cây. Phải bí mật lắm mới qua nổi bọn Cá. Vùng biển này bắt đầu thuộc quyền kiểm soát của hải tặc. Phải có món này phòng thân… Kiếng lên đạn rôm rốp, bô bô cho mọi người nghe thấy. Sau khi đã bắn súng thị uy, hắn bàn với Chiên và Hiêu, kêu tất cả mọi người phải nộp thêm tiền, bù chi phí sửa máy, xăng dầu và thời gian chờ đợi. Ai không nộp sẽ bị ném xuống biển.

Ai cũng phải bấm bụng nộp thêm nữ trang, tiền bạc. Tôi lột chiếc đồng hồ Longdin mạ vàng đeo trên tay. "Chiếc đồng hồ này giá hơn 1 lượng, ưng không?" Kiếng liếc nhìn, gật đầu. Bỗng có tiếng chu chéo của người đàn bà có hai đứa con sinh đôi: "Có ai nhặt được vàng của tôi không Tôi mất hai lượng". Chị mếu máo sờ nắn khắp người, rũ tung mọi đồ đạc tư trang. Đứa chị đang trông đứa em vẫn sốt cao, thấy mẹ khóc, vội đến ôm lấy mẹ khóc theo.

Tôi nhìn gã mắt lồi mũi khoằm. Gã cúi gằm mặt lẩn ra phía sau. Tôi biết, tối qua gã đã chôm chỉa hai cây vàng khi sờ soạng người đàn bà. Vạch mặt gã lúc này ư? Gã sẽ chối biến. Dây với hủi làm gì? Gã sẽ thù, ném tôi xuống biển. Nghĩ vậy và tôi cũng như gã, cúi gằm mặt. Đã bị dồn tới tình cánh này mà còn hèn nữa, thì còn gì để nói nữa…

Ngày… tháng… năm…

Tài công Cón có sáng kiến làm buồm dã chiến bằng các tấm chăn ghép lại để tàu xuôi về hướng đông nam. Gió quẩn.

Tàu như chạy vòng tròn. Cứ kiệu này bao giờ mới tới bờ Inđonêxia hay Mã Lai. Lương thực mang theo đã cạn. Những chiếc bánh chưng bị sũng nước, nhão nhoét, bốc hơi thiu. Bánh mì, lương khô cũng bị nước ngấm, mún nhão, cố lắm mới nuốt nổi. Tình trạng thiếu nước đã bắt đầu. Bọn chủ tàu vẫn cơm hai bữa. Thỉnh thoảng Kiếng bảo Chiên phát chẩn cho trẻ con và người ốm mỗi người 1 nắm cơm vừa sống vừa khê.

Ngày… tháng… năm…

Nắng như đổ lửa. Kể ca chủ tàu cũng đã hết lương thực và nước ngọt. Môi tôi khô rộp, mắt mờ nổ đom đóm. Mọi người bất động. Chẳng còn gì để tranh giành nhau, trừ ăn thịt đồng loại để sống.

Bác sĩ Thuần nhóm những que củi cuối cùng để biến chai nước biển thành ly nước ngọt. Thấy tôi nhìn thòm thèm, anh cho tôi vài giọt để thấm ướt môi. Ở góc tàu, gã mắt lồi vạch quần đái vào vỏ chai cô ca rồi uống. Mấy người đan bà cũng bảo trẻ đái vào ca để uống.

Ai đó reo lên khi lờ mờ nhìn thấy hòn đao phía trước. Bác sĩ Thuần nói với chủ tàu:

- Cho tàu cập đảo để sửa máy và lấy nước, thực phẩm.

- Cha nội có biết đấy là Côn Đảo hay Phú Quốc không? Muốn rơi trở lại vào tay CS phải không?
- Thà bị CS bắt lại còn hơn chờ chết - Ai đó nói. Nói vậy nhưng tấp vào đảo đâu có dễ khi con tàu chết máy, dù có buồm dã chiến nhưng hầu thư tàu trôi tự do.

Ngày… tháng… năm…

Đang ngủ vật vờ, 1 tiếng súng bỗng dựng tôi dậy. Tôi tự hỏi: Kiếng bắn ai hay bọn cướp biển đã tới? Quả nhiên, 1 con tàu lạ đã áp sát bên hông. Tiếng quát tháo thỉnh thoảng chen 1 câu tiếng Anh. Tỏi bủn rủn người. Chợt nghĩ đến những bộ mặt cổ quái, những mắt chột, thọt chân trong truyện "Đảo giấu vàng". Tàu chúng còn nhỏ hơn cả tàu chúng tôi.

Chúng chỉ có hơn chục đứa, trang bị toàn bằng mã tấu, dao găm. Chỉ có duy nhất 1 khẩu súng lục trong tay 1 gã râu cằm đen kịt mà tôi đoán chắc là thằng chỉ huy. Thằng này súng lục lăm lăm. mặt đầy sẹo, dữ dằn. Những thằng khác cũng sát khí đằng đằng.

Người đầu tiên mà chúng bắt phải đi sang tàu cướp là Chiên. Liếc thấy Chiên thằng chỉ huy đã thèm. Những người phụ nữ khác, từ hôm qua, sau khi nghe bác sĩ Thuần kể về bọn hải tặc vùng biển Malácca đã tự bôi mặt lọ lem đầu tóc rũ rượi, nên chưa lọt vào mắt bọn cướp biển.

- Thằng Hiêu vào lấy khẩu súng cho tao. Tao sống chết với chúng. Bọn này chỉ toàn dao thôi. Mười chọi 1 sợ gì!

Đang nói, thằng chỉ huy chĩa súng vào cổ. Kiếng vội im bặt.

Lần lượt từng người sang tàu bọn cướp cho chúng khám xét. Thấy thùng nước ngọt, thuyền nhân xô nhau đến uống no nê.

Có tiếng phụ nữ kêu thét trong phòng tên chỉ huy. Tôi đoán là Chiên đang bị làm nhục. Đành bất lực thay cho Kiếng.

Cuộc khám xét chóng vánh. Số phụ nữ bôi mặt không ai bị cởi quần áo khi tự nguyện tháo đồ trang sức nộp. Bọn cướp không ngờ là chúng thu được nhiều đồ nữ trang và tiền vàng đến thế. Thằng chỉ huy cười như lợn kêu khi đệ tử nộp hắn khẩu M16 của Kiếng. Chúng giật cả chiếc đồng hồ Longdin của tôi trên tay Kiếng dâng cho thằng chỉ huy. Khốn khổ thân Chiên. Cô bị hành hạ đến nhàu nát. Mắt cô sưng húp, má có nhiều vết cắn. 1 vết máu chảy từ háng xuống tưới bàn chân.

Vừa từ tàu bọn cướp về, Chiên đã nhảy bổ đến Kiếng, tát đánh bốp vào mặt gã.

Cả bọn nhìn Chiên cười sằng sặc. Thằng chỉ huy ra lệnh cho tay chân mang ra ít đồ ăn và cơm nguội. Thuyền nhân tranh nhau giành giật. Bọn cướp nhìn, cười khinh bỉ: "Vietnam no good". Rồi chúng cắt dây, nổ máy bỏ đi.

Ngày… tháng… năm…

Chiều tối, tàu bị cướp lần thứ hai. Lần này bọn hải tặc đông hơn. Chúng có nhiều súng, cả 1 khẩu B40, không biết thạt hay giả. Chúng nhốt tất cả đàn ông trong hầm lạnh để dễ dàng lục soát, hãm hiếp đàn bà. Tất nhiên cô chủ tàu xinh đẹp không thể lọt khỏi mắt cú vọ của chúng. Dưới hầm tàu, chúng tôi nghe rõ tiếng kêu khóc, tiếng vật lộn của cánh đàn bà con gái với lũ hải tặc.
Trong bọn cướp biển, có thằng nói được tiếng Anh. Tôi thay mặt tàu nói chuyên với bọn chúng.
"Chúng tôi là thuyền nhân, được chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh - Tôi nói – Hiện nay máy tàu chúng tôi bị hỏng. Lương thực, nước ngọt đã hết. Chúng tôi nhờ các ông kéo tàu tới đảo tị nạn gần nhất.

- 5000 USD - Thằng trưởng tàu xoè năm ngón tay ra.
Tôi nói lại với Kiếng. Kiếng lắc đầu:
- Tiền bạc của tôi cũng bị cướp sạch. Có ai còn 5000 mỹ kim thì ứng ra.
Cuộc thương thảo thất bại. Bọn hải tặc cắt dây. Con tàu hỏng máy lại vật vờ giữa đại dương.

Ngày… tháng… năm…

Hầu như tàu vẫn đứng nguyên tại chỗ. Nắng như đổ lửa. Trời im gió như trước 1 cơn bão. Lại lâm vào tình cánh đói và khát.

Đói quá. Bây giờ thì mọi người lại trông chờ cho bọn hải tặc tới. Thà để cho chúng cướp và hãm hiếp, may ra còn có ngụm nước, miếng cơm qua con đói và khát. "Tôi mong cho bọn cướp biển tới" - Gã mắt lồi như con thú đói lồng lộn trên sàn tàu, gào lên. Hình như gã muốn điên. Cái dạ dày rỗng không của gã chừng như không chịu được. Sáng sớm tôi đã thấy gã uống nước đái và ngồi câu suốt buổi. được 1 con cá bằng ngón tay, mắt gã sáng rực. Gã mút con cá như trẻ con mút kẹo kéo.

Ngày… tháng… năm…

Cả tàu đói lả. Không ai muốn nhúc nhích.

Cứ tình trạng này, chỉ vài ngày nữa, cô thế giới sẽ hoảng hốt lên khi phát hiện thấy 1 con tàu ma vật vờ trên đại dương mà bên trong là gần hai trăm xác người thối rữa…

Không biết ở giữa đại dương thế này, kền kền và dòi bọ có đến được không?

Ngày… tháng… năm…

Cơn bão bất ngờ ập đến giữa nửa đêm. Chưa bao giờ tôi thấy khủng khiếp đến thế. Ai cũng tin chắc mình sẽ chết.

Không còn cách gì chống đỡ được. Đến như vịn tay vào thành tàu hay vật cố định nào đó cho khôi bị quăng quật cũng không còn đủ sức. Trẻ con thôi không thấy gào thét. Chúng được bố mẹ ôm chặt hoặc như quả bóng bật từ chỗ này sang chỗ khác.

Không biết ngoài kia sóng gió gầm rít như thế nào? Con tàu có lật úp chìm xuống đáy biển không? Tự nhiên tôi nhớ đến u tôi, đến Miên và hai con Vân, Vy.

Bây giờ chắc chắn u tôi và bố con Cục đã về đến quê. Đã chín ngày tôi lênh đênh trên biển rồi. Ở quê chắc đã biết tôi vượt biên, đã sắp tới miền đất hứa. Ôi, miền đất hứa là thế này đây?"
May mà cơn bão qua nhanh. Chắc là 1 cơn lốc biển chứ nếu là bão thì con tàu này không trụ nổi.

Nước tràn các khoang. Đàn ông, dù đói là, cũng phải tát nước, nếu không muốn tàu chìm.

Ngày… tháng… năm…

Đã trữ được 1 ít nước mưa, nhưng lương thực thì cạn kiệt. Đói vàng mắt. Lại ao ước có tàu hải tặc, để chúng cho ăn, và may ra chúng kéo tàu tới đảo.

Trong cơn đói lả, tôi mơ màng ngửi thấy mùi thịt nướng. Hay là tôi mơ? Nhưng rõ ràng khứu giác tôi không lầm. Mùi thịt nướng thơm muốn tứa nước chân răng. Ngày xưa Tào Tháo làm cho quân lính tứa nước chân răng vì câu chuyện rừng mơ phía trước mặt. Bây giờ tôi tứa nước chân răng vì có vị thịt nướng ngay phía đuôi con tàu này.

Bác sĩ Thuần nằm kề bên tôi cũng cưa quậy trở dậy. "Có mùi thịt nướng ông ạ. Tay nào mới câu được cá. " "Không phải mùi cá. Mùi thịt nướng hẳn hoi. Hay tay nào vừa bắt đuốc chuột?".
Bỗng có tiếng thét khản đặc:

- Ối trời đất ơi, có ai thấy con bé Huệ nhà tôi đâu không? Suốt đêm qua tôi ôm nó trong tay… Hai chị em, con Lan 1 bên, con Huệ 1 bên…

Bé Huệ bị mất tích. Có thể bị lăn xuống biển. Cả tàu như bị điện giật. Nhưng cũng chẳng biết làm cách nào vì ai cũng đói lả không thể nhúc nhích gì được.

- Ối các ông các bà các cô các chú ơi, tìm cháu Huệ giúp tôi với! Ối Huệ ơi. Con đi đâu rồi? Tôi biết ăn nói làm sao với anh ấy ở bên kia…

Sau này tôi biết chị Bẩy Trà, tên người đàn bà sinh đôi, vốn là vợ nhỏ của 1 thiếu tá quân đội cộng hoà. Ngày viên thiếu tá di tản theo quân đội Mỹ, Bẩy Trà đang có mang hai đứa nhỏ. Giờ viên thiếu tá đang làm ăn khá giả trên đất Mỹ, nhắn tin về đón ba mẹ con sang.

Bỗng có tiếng huỳnh huỵch trên boong tàu. Tôi cố gương dậy, nhìn lên. Tài công Cón với thân hình hộ pháp đang lôi gã mắt lồi xềnh xệch trên sàn tàu, thỉnh thoảng lại thoi 1 quà đấm tròi giáng giữa mặt. Môi gã mắt lồi sưng vù, bê bết máu. Cái mũi khoằm như vẹo sang 1 bên.

- Nói đi. Mày vừa nướng thịt gì? Mày quăng xác con bé xuống biển rồi phải không?

Thông tin rợn người xộc lên óc tôi nhức buốt. Tôi lấy hai tay bưng lấy đầu. Chẳng lẽ con người đang biến thành thú vật?

- Đ. mẹ. Nói! Tao sẽ quăng mày xuống biển - Cón giật mảnh áo vất lên sàn, để lộ những tảng ngực nâu bóng - Nghe tiếng vật gì ném xuống biển cha mày đã sinh nghi. Không ngờ mày chó má thế. Mày vừa nướng thịt gì?

- Dạ, nướng tôm. Em bắt được con tôm…

- Mày tưởng lừa được cha mày hả? - Cón vòng chân đá móc, hất gã mắt lồi khỏi sàn tàu - Cho mày sẽ cho mày xuống ngủ với tôm.

Cón cúi xuống bế bổng gã mắt lồi lên, toan lăng xuống biển. Nhưng Chiên đã kịp ngăn lại. Thằng mắt lồi đã được tha. Gã nằm co rúm trên sàn tàu như 1 con chó ghẻ.

Tôi nằm bưng mặt khóc. Đau đớn quá chừng thân phận người Việt

Ngày… tháng… năm…

Tiếng động cơ bỗng vang lên. Những ngọn đèn bật sáng.
Cả tàu như được gặp cứu tinh.

Thì ra suốt mấy ngày nay, thợ máy Thạch cùng kỹ sư Hoàng vẫn lặng lẽ mày mò cách cứu máy tàu. Và họ đã thành công. Con tàu đã có thể thoát khói vùng biển quẩn để tới 1 đảo gần nhất.
Niềm vui vừa loé lên, liền bị vụt tắt. 1 tàu hái tặc lại lù lù xuất hiện. Chúng bôi số tàu để không bị nhận diện. Chúng cho tàu chạy vòng quanh, như con thú trước khi thịt con mồi.

Cũng có thể chúng dè chừng vì sợ có súng. Đến khi biết chắc những thuyền nhân người Việt đang thoi thóp vì đói, chúng mới sáp gần, quăng dây và bắc cầu tràn sang. Tên chủ tàu trông gian giảo và hung bạo. Gã cầm lăm lăm chiếc búa sắc lém trong tay, ra hiệu cho bọn lâu la lục soát từng người.

Chẳng cần che đậy, cách li, chúng bắt tất cả đàn bà cời quần áo vạch kỹ từng silip xu chiêng, soi từng ngóc ngách xem có giấu tư trang hay hạt xoàn vào chỗ kín. Thằng chủ tàu dùng búa nậy cá thành tàu vì nghi có giấu vàng. Lục soát chán, chúng biết rằng chỉ còn ăn cái xái vì bọn cướp trước đã lột hết. Chúng chửi bới loạn xạ, vơ vét 1 ít quần áo, đồ đạc, rồi bó đi.

Ngày… tháng… năm…

Tàu nhằm hướng tây đi miết. Thấy đàn chim bay lượn, chúng tôi đoán đất liền đã gần đâu đây.
Ánh trăng như dát vàng trên mặt biển. Tôi khóc thầm vì cảnh chẳng chiều lòng người. Tói nửa đêm, thấy cồn cát và hàng dừa mờ mờ hiện ra. Không biết đây là đâu: Phú Quốc, Côn Đảo, hay Thái Lan, Mã Lai. Đâu cũng được. Miễn là đất liền. Mười ngày trên biển đã vãi hết cả linh hồn. Moi người xô nhau lội nước lên bờ. Riêng bọn chủ tàu ở lại. Có lẽ Kiếng đợi mọi người lên bờ hết mới mở kho cất giấu vàng. Hoặc họ sẽ cho tàu đi 1 nơi khác. Gần sáng, dân trên đảo chạy tới. Hoá ra đây là đất Thái.

Ngày… tháng… năm…

Hoá ra, các nước bạn láng giềng, chăng ai vui sướng gì khi phải đón tiếp những người khách không mời Việt Nam. Bằng chứng là hầu hết những người dân đều tỏ ý xa lánh và nhìn đám người tị nạn chúng tôi như bọn hủi, bọn thương hàn, dịch hạch. Cũng đáng thôi. Người Việt mình còn không đùm bọc cưu mang nhau, gà cùng 1 me dứt tình hại nhau, thì người ngoài đối xử như thế là phải thôi.

Sau này tôi được biết rằng, chúng tôi không phải là những người khách đầu tiên. Từ mấy năm nay đã có hàng chục con tàu hàng nghìn thuyền nhân Việt Nam dạt vào hòn đảo nhỏ bé này. Cuộc sống của những người dân đánh cá lập tức bị đảo lộn. Khan hiếm lương thực, thực phẩm. Phóng uế bừa bãi. Trộm cắp, đánh lộn. Câu nói của người xưa: "Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc" quà không sai. Người Việt cùng đường đi đến đâu cũng gieo rắc tai hoạ.
Nhà chức trách địa phương tỏ ra rất phiền lòng. Họ cho dẫn cả chủ tàu tới, giam lỏng tất cả trên 1 doi cát được quây xung quanh bỏi cây phi lao và dây kẽm gai. Mỗi người được phát 1 chén cơm với 1 con cá khô mỗi ngày. Mỗi gia đình tự tìm cây que, lá dừa khô để tự làm những chiếc lều che tạm.

Đến lúc này mọi người mới phát hiện ra gã rnắt lồi đã biến đâu mất. Gã không dám nhìn mặt đồng loại, hay đã cuỗm được vô số của cải và tìm cách trốn về nước. Nhưng thôi, còn 189 người, thế là may. Tránh xa được 1 con thú ăn thịt người.

Mười 1 ngày trời sống trên doi cát, như thời Rôbinsơn Cruxô, dài hàng thế kỷ. Tôi gầy tọp như 1 que củi. Khắp người ghẻ lở. Tóc và râu tôi rậm rì chẳng khác nào ác quỷ…

Ngày… tháng… năm…

Có tin đồn các thuyền nhân sẽ được đưa tới trại ty nạn đao Songkla rồi được đưa đi Hồng kông hoặc Mỹ, Canada. Ai cũng mừng và nhanh chóng quên đi mười ngày sống nhu những kẻ hành khất trong những túp lều trống hoang với những đêm mưa nhiệt đói ướt sũng không thể nào chợp mắt.

Nhưng rồi tình hình có vẻ nghiêm trọng khác hẳn 1 cuộc chuyển địa điểm bình thường. Lính Thái quần áo rằn ri, có chó becgiê đi theo, tiểu liên lăm lăm, áp giải bọn chủ tàu và thuyền nhân đi 1 chặng đường thật xa. Thuyền nhân sẽ bị đưa đi đâu? Đi đày biệt xứ hay đi thủ tiêu như hồi thế chiến thứ hai Híttle đã làm với người Do Thái. Chúng tôi hoang mang đến cực điểm. Ngay từ thời Tây Sơn thắng trận Rạch Gầm, Xoài Mút, tiêu diệt gần hai mươi vạn quân Xiêm, người Thái đã chẳng ưa gì người Việt. Khi cộng sàn tràn xuống phía nam, lấn sang Campuchia thì họ càng thất kinh, lúc nào cũng lo 1 hiểm hoạ luôn rình rập.

Đoàn người rồng rắn đi chừng ba giờ đồng hồ thì đến 1 bến cá với hơn chục nóc nhà. Nhìn thấy con tàu cũ của chúng tôi mang biển số VT 1413 thì tất cả đều thất kinh. Thì ra suốt mười ngày nay người Thái điều nhũng thợ giỏi nhất đến để chữa tàu là muốn nhanh chóng tống khứ con tàu ma và những người bạn Việt không mời này ra khỏi đất nước họ.

Không ai bảo ai, người lớn trẻ con đều ngồi phịch xuống đường. Chúng tôi biểu tình, quyết không lên con tàu cũ của mình, quyết không ra biển nữa. Phải đưa chúng tôi đến Songkla, phải cho chúng tôi gặp Hôi Chữ thập đỏ, gặp Uỷ ban người tị nạn của Hôi đồng Bào an Liên Hợp Quốc.

Tôi đã dùng tất cà vốn liếng tiếng Anh và 1 vài tiếng Thái cùng những động tác chân tay để đàm phán ngoại giao với viên chỉ huy, nêu rõ nguyên vọng của mọi người, nhưng vô ich. Viên chỉ huy với bộ mặt sắt chỉ biết đúng ba từ tiếng Anh "Vietnam no good ", xua tay như xua tà, ra lệnh cho binh lính thi hành nhiệm vụ.

Đạn rôm rốp lên nòng. Lưỡi lê sáng quắc. Chó becgiê vừa gầm gừ vừa lùa đoàn người ra cầu tàu. Cứ hai người lính Thái 1 cặp, khuân từng người quăng xuống tàu. Tiếng khóc, tiếng gào thét như sắp phải xuống địa ngục.

Rồi tàu hải quân Thái nổ máy, kéo con tàu VT 1413 ra khơi, giữa đêm tối mịt mùng.

Ngày… tháng… năm…

Sau khi tàu hài quân Thái cắt dây, tàu chúng tôi chạy tiếp 1 ngày 1 đêm nữa thì đụng 1 hòn đảo. Lần này là đất Mã Lai. Thấy bãi cát trắng trải dài dọc hàng dừa xanh, thấp thoáng những toà nhà ven biển có cắm cờ, chúng tôi đoán đây là 1 khu nghỉ mát.

Trước khi đổ bộ lên bờ, chúng tôi bàn nhau tìm cách phá tàu đục cho tàu chìm, làm cho máy hỏng để khỏi bị kéo ra khơi thêm lần nữa. Trăm lạy ngàn lạy vua Thuỳ Tề, chúng con không dám đùa rỡn với người nữa rồi.

Người Mã đã chuẩn bị sẵn để đón tiếp những bạn Việt. Lính Mã, quần áo rằn ri, trang bị như thuỷ quân lục chiến Mỹ tập trung chúng tôi trên bãi cát, lần lượt gọi tùng người đến 1 cái lều bạt để khám. Họ tuyên bố: Đây là vấn đề an ninh.

Tiền bạc nữ trang họ sẽ giữ hộ. Đám đàn bà con gái sợ co rúm. Ho biết chắc bon lính lại giở trò ma. Sau bao phen tam khoanh tứ đốm bị hai tặc nhiều lần lột truồng cuỗm sạch, nào ngờ vẫn còn nhiều người giấu lại được vàng và hạt xoàn. 1 số người tinh khôn, lùi lại giấu của dưới bãi cát. Nào ngờ sau 1 hồi khám xét, tất cả thuyền nhân phải chuyển đi ngay. Những người giấu của dưới cát đành không có cơ hội tìm lại.

Chúng tôi bị lính Mã áp giải như bọn tù nhân. Dân Mã nhìn người Việt bằng ánh mắt khinh bỉ, hằn học. Du khách phương Tây chạy theo chụp hình. Ngày mai trên các kênh thông tin toàn cầu, hình ảnh chúng tôi sẽ bị bêu lên như những kẻ mạt vận đáng thương nhất của nhân loại.

Ngày… tháng… năm…

Chúng tôi trở thành tù nhân trên xứ người theo đúng nghĩa đen của từ này. Lính Mã nhốt chúng tôi trên 1 khu đất 1 bên là con lạch sâu, 1 bên là rừng dừa nước, phía trước là đồn canh biên phòng. Đến trước chúng tôi đã có 37 thuyền nhân của con tàu mang biển số ĐN 2067 đi từ Cần Giờ. Tàu ĐN 2067 nhỏ hơn tàu chúng tôi, khởi hành trước chín ngày, chở 83 người, nhưng chỉ còn 37 người sống sót. Bọn hai tặc đã cướp tàu, giết chết và quăng 46 người xuống biển.

Để trừng trị tội phá tàu, nhà chức trách Mã bỏ đói chúng tôi ba ngày, không tiếp tế lương thực, thuốc men. Người của tàu ĐN 2067 thương hại sẽ chia trong cơn hoạn nạn. 1 vài phụ nữ phải lén vào đồn cho lính Mã giải buồn để có 1 chút đồ ăn, thuốc ngừa. Bẩy Trà cũng vào tình cảnh này.
Mười bẩy ngày bị cầm tù trên xứ người, phải đi chặt dừa nước, kiếm cây dựng lều, kiếm củi, mò ốc bán lấy tiền đổi gạo… khiến tôi bị ho ra máu. May mà có phái đoàn Hồng thập tự đến cho thuốc kịp thời, cơn ho của tôi đã tạm dứt.

Ngày… tháng… năm…

Con tàu biển số VY 1413 của chúng tôi, đã được nhà chức trách Mã sửa chữa xong, đang đứng trực sẵn ở cầu tầu. Nhìn thấy nó là thấy bóng tử thần. Tất cả đều kinh hoàng táng đởm khi phải bước chân lên sàn tàu kia. Nhưng định mệnh đã sắp đặt. Làm sao mà cưỡng nổi. Ra khơi lần này, tàu chúng tôi còn có bạn đồng hành là tàu ĐN 2067 chở theo 37 người số may còn lại.
Dây được buộc lần lượt từ tàu hải quân Mã vào tàu chúng tôi tiếp đó từ tàu chúng tôi lại buộc sang tàu ĐN 2057, mỗi tàu cách nhau chừng 1 trăm mét.

Buổi sáng nắng chói chang. Nếu tôi không lầm thì đúng vào những ngày này bẩy năm về trước, SG thất thủ. Sáng 30 tháng tư ấy mẹ con Miên đã ra cửa chờ sẵn để theo bố và anh trai di tản. Nhưng tôi đã hiên quyết ngăn cuộc ra đi này. Vì tôi phải gặp lại u và nhũng người ruột thịt. Tôi phải trở về làng Động. Tôi yêu nước Việt.

Bây giờ, cuộc ra đi của tôi đã quá muộn và hình như không thuận ý trời. Chúng tôi đến đâu cũng bị xua đuổi. Không có nơi nào cho chúng tôi dung thân…

Tàu hải quân Mã kéo hai tàu chúng tôi về phía đông nam với vận tốc chóng mặt. Đã quen sóng gió rồi, tàu lắc khủng khiếp, nhung chỉ ít người nôn oẹ. Mà có gì trong bụng nữa đâu Chỉ có cơn khát cồn cào. Nhiều người xin nước uống. Lính Mã chỉ xuống biển.

Gần sáng, chắc đã đi xa hải phận Mã Lai, tàu chiến Mã cắt dây. Chính lúc này chúng tôi đã rơi vào thảm hoạ.

Số là đang chạy với tốc độ quá lớn, trời lại tối, sóng lớn mù mịt, bị cắt dây bất ngờ, tàu chúng tôi hẫng lại, vừa quay tròn, vừa dụng lên cao. Tàu ĐN 2067 cũng mất đà, chồm tới, đâm sầm vào hông tàu tôi. Con tàu bật trở lại. Tôi nghe thấy 1 tiếng động khủng khiếp. Rồi ngất đi.
Tỉnh lại, thấy mọi người im như chết. Tôi bò đi lay từng người. Thì ra sự va đập quá mạnh, nhiều người cũng giống tôi, bị chết ngất. Hơn 1 giờ sau, chúng tôi mới hiểu ra sự tình. Đúng giây phút con tàu của chúng tôi mười mươi bị chìm thì tài công Hiêu đã nhanh chóng cắt dây, nên cuộc va đập không bị vỡ tàu. Nhưng con tàu xấu số phía sau, do không chắc tay lái, đã không giữ được thăng bằng, quay tròn với sức văng ly tâm cực lớn, bị sóng tung lên cao rồi lật úp xuống. Sự cố xảy ra rất nhanh. Đến khi tàu chúng tôi hoàn hồn, nhìn lại phía sau thì không thấy bóng dáng con tàu đồng hương đâu nữa.

Thương thay 37 thuyền nhân xấu số. Tưởng họ may hơn 46 người cùng hội cùng thuyền, ai ngờ họ cũng bị chôn vùi dưới đáy biển…

Ngày… tháng… năm…

Con tàu của chúng tôi bị mất la bàn, như con tàu mù, lao bừa về hướng mặt trời mọc.
Buổi chiều, trời bỗng đen kịt, giông gió nổi lên. Mưa trút xối xả. Tàu lại như mảnh vỏ trấu trên nồi cám lợn đang sôi. Moi người lầm rầm khấn Phật. Tôi làm dấu Thánh. Chỉ còn biết cầu mong ở đấng tối cao.

Có ánh đèn phía trước. Biết là tàu đã tấp vào 1 hòn đảo. Mọi người háo hức lội vào bờ. Vừa đặt chân xuống nước, nhiều người đã kêu thét vì đáy biển lởm chởm đá san hô cứa chân toé máu.
Lần này thì tròi đã có mắt. Chúng tôi đã đến đất Nam Dương. Người dân ở đây đón chúng tôi thân thiện và cỏi mở.

1 người đàn ông biết tiếng Anh tình nguyện làm hướng dẫn viên đưa tàu chúng tôi tới Le Tung cách đây không xa. Theo lời người dẫn đường thì Le Tung là nơi có cơ man người tị nạn Việt Nam.

***

Sau hai mươi chín ngày thập tử nhất sinh, nhiều lần tưởng rơi vào móng vuốt thuỷ thần, tới Le Tung, con đường đến miền đất hứa của tôi mới phần nào hé lộ. Tôi gặp khá nhiều người quen, nghe biết tin tức thời sự và tình hình ở nhiều nơi. Tôi gửi tin ngay cho Miên và các con và cho địa chỉ liên lạc.

Le Tung là trung tâm 1 quần đảo có bốn đảo nhỏ, thuộc đất Nam Dương. rất gần Mã Lai và Singapore. Từ năm 1975 tới nay, do dòng người tị nạn Việt Nam ồ ạt đến, nơi đây đã trở thành 1 khu đô thị sầm uất.

Phố xá hẹp, chạy ngoằn ngoèo ven đáo, nhưng san sát các sạp hàng, bày bán đủ thứ như chợ Nguyễn Thông gần ga Hoà Hưng, SG. Người bán chủ yếu là người Hoa, người In đô, người mua là thuyền nhân Việt. Theo nhà chức trách, tàu chúng tôi là tàu thứ 372 đến đảo. Đã có hàng nghìn người đủ tiêu chuẩn được chuyển sang Singapore để đáp máy bay đi Mỹ. Nhưng cũng có cả nghìn người phải ở lại, vì sức khoẻ không đảm bảo, vì thân nhân không rõ ràng, vì thiếu người bảo lãnh… Số người này xoay ra tìm cách kiếm sống lâu dài.

Họ làm đủ nghề, từ khuân vác, gánh nước thuê, vào rừng chặt củi chặt cây dựng nhà, xuống bãi mò cua sò, mở hiệu tạp hoá, làm đầu, đi trích ngừa, dạy tiếng Anh, ăn xin, trộm cắp, làm đĩ. Rất nhiều người đã đến trước chúng tôi hàng nửa năm. Họ đang xếp lốt chờ khám sức khoẻ và phỏng vấn.

Ơ Le Tung 1 tuần, chúng tôi lại được chở sang đao Ruồi, cách chừng hơn hải lý, nơi có trại tị nạn do Liên Hợp Quốc bảo trợ. Từ đây chúng tôi đã được sống bằng tiền bố thí của Liên Hợp Quốc với tiêu chuẩn 3 USD 1 người 1 ngày.

Gọi là đảo Ruồi, vì ở đây cơ man nào là ruồi. Dân tị nạn hàng chục ngàn người, ở tràn lan, các lán trại hàng hàng san sát. Sáng sáng người ngồi chồm hỗm đen đặc bãi biển. Lính In đô cầm roi đuổi, nhưng không xuể. 1 dải bãi cát dài bốc mùi khai thối nồng nặc. Tệ phóng uế bừa bãi, khiến ruồi bọ phát sinh, bu theo từng đàn đen kịt. Ban ngày cũng phải ngồi ăn trong mùng. Nhiều người bị mụn nhọt, không có bông băng phải lấy giấy báo quấn đầy chân tay để tránh ruồi. Ruồi kéo theo bệnh tả và thương hàn, làm chết hàng chục người. Phái đoàn HCR đến phỏng vấn, phái đoàn Mỹ đến thăm, phới bỏ nửa chừng vì ruồi quấy nhiễu…

1 thanh niên của tàu MH 1172 mới đến, bị người In đô treo cổ trên cây dừa vì tội vào nhà thờ Hồi Giáo ăn trộm thùng tiền công đức. Người bản địa ngày càng khinh ghét dân tị nạn. 1 lần đi bắt sò, bị 1 thanh niên In đô chửi vỗ mặt bằng tiếng Anh: "Vietnames is the doges" (Dân Việt Nam là đồ chó ghẻ), tôi đã toan xông đến đấm vào mõm hắn ta.

Tôi mở lớp dạy tiếng Anh cho các cháu con em người quen để chờ đợi.

Hơn năm tháng đợi chờ. Làm các thủ tục. Khám sức khỏe. Chụp hình. Trả lời phỏng vấn. Cuối cùng tin vui đã đến: Tôi có tên đi Mỹ.

Vậy là sau sáu tháng mười hai ngày, trong đó có hai mươi chín ngày thập tử nhất sinh nồi chìm trên biển và trong nanh vuốt tử thần, buổi sáng thần tiên ấy, chiếc máy bay Boeing 747 mang cờ hiệu Hoa Kỳ đã chở những thuyền nhân khốn khổ chúng tôi từ phi trường quốc tế Singapore băng qua Thái Bình Dương tới Los Angeles. Chỉ hơn chục tiếng đồng hồ nữa thôim tôi sẽ gặp vợ con tôi sau bốn năm xa cách. Tôi sẽ đặt chân tới miền đất hứa, nơi mà để tới được, tôi đã tìm sự sống trong cái chết, đã phải đổi bằng sinh mạng, với tất cả nỗi tủi nhục ê chề và những ngày vô cùng khủng khiếp mà chỉ những ai đã vượt qua địa ngục mới hình dung ra nổi.

Nhìn xuống Thái Bình Dương hun hút dưới cánh máy bay, mấy lần tôi bật khóc. Ước gì tôi có 1 vòng hoa và mở cửa để thả xuống, để cầu chúc cho hàng vạn đồng bào xấu số của tôi đã tan hoà vào mịt mùng biển thẳm.