Thứ Ba, 28 tháng 4, 2009

HỒ CHÍ MINH, CON NGƯỜI BẤT DŨNG VÀ BẤT NHÂN, BẤT TRÍ VÀ BẤT TÍN

Hoang Van

Trong khi giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam không ngừng ca tụng Hồ chí Minh, thì có rất nhiều người Việt Nam cho rằng họ Hồ là người vừa bất dũng và bất nhân, vừa bất trí và bất tín. Có phải như vậy hay không ?

Người tây phương có câu : « Xét một cái cây, người ta chỉ cần xét cái quả của nó. » Nếu quả ngon ngọt, lợi cho sức khỏe con người, thì người ta nói cái cây đó tốt ; nếu quả đó không những đắng mà còn độc hại cho sức khỏe , thì người ta nói cái cây đó xấu.

Con người là tổng số kết quả những việc làm và suy nghĩ của nó. Nếu kết quả những việc làm và suy nghĩ có lợi cho gia đình nó, có lợi cho quốc gia, dân tộc, thì người ta nói con người đó tốt ; nếu kết quả những việc làm, suy nghĩ mà có hại cho gia đình và quốc gia dân tộc, thì người ta nói con người đó xấu.

Xét kết quả những việc làm, những suy nghĩ của Hồ chí Minh, chúng ta thấy con người này là một con người xấu, tai hại không những cho gia đình, vợ con, mà còn tai hại cho quốc gia, dân tộc; vì con người này vừa bất dũng và bất nhân, vừa bất trí và bất tín.

I ) Hồ chí minh bất dũng và bất nhân

Sau hiệp định Genève 1954, Hồ chí Minh về sống ở Hà nội, có ý lấy vợ ; nhưng bị Bộ chính trị đảng Lao Động tức đảng Cộng sản Việt Nam phản đối, viện lẽ rằng vì bác là « cha già của dân tộc », « một đời hy sinh cho dân tộc », nên không thể lấy vợ. Họ Hồ đã nghĩ lấy vợ người Tàu, cho người nói với Chu ân Lai kiếm cho một người vợ Tàu. Nhưng Chu ân Lai biết nhóm Lê Duẫn, Lê đức Thọ, Trần quốc Hoàn không chịu, nên làm ngơ. Tuy nhiên nhóm người này có tìm cho « bác « một cán bộ hộ lý, người vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, nơi « bác « rất quen thuộc, ẩn náu xưa kia. Đó là cô Nông thị Xuân. Mấy năm đầu thì mọi việc êm xuôi. Cô Xuân có con với « bác « và còn đang mang dạ chửa. Người con hiện nay còn sống tên là Nguyễn tất Trung, lúc đầu do ông tướng Chu văn Tấn nuôi, sau do ông Vũ Kỳ. Thế rồi không hiểu làm sao, cô Xuân bị Bộ Chính trị vu cáo cho là làm gián điệp, phải chăng Trần quốc Hoàn, Bộ trưởng bộ Công An lúc bấy giờ, thấy cô Xuân, vợ bán chính thức của « bác « , gái một con, trông mòn con mắt, động lòng trắc ẩn, muốn ngủ với cô ta, nhưng bị từ chối, nên vu cáo.. Trước lời tố cáo của Trần quốc Hoàn, « bác « không có một tý gì là Dũng, để bênh vực cô ta, hay làm sáng tỏ vấn đề. Trần quốc Hoàn được thế, làm tới, thường lui tới hiếp cô ta, trước mặt ngay cả người em gái, tên Nông thị Vàng ; sau đó, vì hiếp chán rồi, lại sợ vụ việc bại lộ nên Trần quốc Hoàn đã cho người đập đầu chết cô Xuân, rồi vất ra một ngã tư ở ngay Hà nội, định che dấu sự thật là cô bị đụng xe. Sau đó cô em thì phải trở về Cao bằng, nhưng Trần quốc Hoàn còn sợ, sai người giết chết Nông thi Vàng, rồi ném xuống sông. Không dè cô này có một người yêu đi lính, cô đã kể hết sự việc cho người yêu mình nghe. Sau đó anh này đã viết một bức thư cho Nguyễn hữu Thọ, Chủ tịch quốc hội lúc bấy giớ. Ông này giữ kín bức thư lúc ban đầu, sau đó thì công bố. Thêm vào đó, nhà văn Vũ thư Hiên, con của ông Vũ đình Huỳnh, có thời cũng làm thư ký riêng cho « bác « , có viết quyển Đêm Giữa Ban Ngày, nói về vụ này.

Qua sự việc trên, chúng ta thấy họ Hồ vừa bất dũng, vừa bất nhân, bất dũng vì, bề ngoài thì chúng tâng bốc lên, bề trong thì chúng coi thường, coi khinh, mà « bác « ngậm căm như hến ». Họ Hồ còn bất nhân ở chỗ là bình thản thấy người mà mình muốn lấy làm vợ, có những 2 con với mình, một con đã sinh và một con đang mang dạ chửa, bị tay em mình hiếp dâm, đánh đập, rồi giết.

I I ) Hồ chí minh bất trí vì đã đi theo Đệ Tam Quốc tế Cộng sản mà chưa phân biệt nổi Đệ Nhị và Đệ Tam là gì, thêm vào đó còn tuyên bố : “ Tôi không có tư tưởng gì cả, tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ.”

Thật vậy, trong quyển sách « Những mẫu chuyện về đời họat động của Hồ chủ tịch « , nhà xuất bản Sự thật, Hà nội, 1975, tác giả là Trần dân Tiên, chính là Hồ chí Minh. Ở đây chúng ta không nói đến một con người quá vô liêm sỉ, tự lấy tên người khác, rồi tự viết sách, tự khen mình ; chúng ta chỉ nói đến một sự kiện trong quyển sách, đó là khi dự hội nghị Tours ở Pháp năm 1920, họ Hồ thú nhận nghe chữ Pháp chữ được chữ chăng, thế mà có một số trí thức và tay em Hồ cho rằng ông viết và nói thông thạo nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Pháp, đến mức độ mà ngày cả « Bản án thực dân « , viết bằng tiếng Pháp, khi họ Hồ đưa cho Ban Thư ký hội nghị Versailles họp trước đó một năm, năm 1919, cũng là của Hồ. Cũng chính trong hội nghị Tours, họ Hồ thú nhận không hiểu Đệ Nhị và Đệ Tam quốc tế Cộng sản là gì ; thế mà ông vẫn lao đầu đi theo Đệ Tam. Đó là bất trí. Trong khi đó thì cụ Phan bội Châu đã hiểu rõ nếu đi theo Đệ Tam thì có nghĩa là từ bỏ chủ quyền quốc gia, vì tổ chức này chủ trương kỷ luật sắt từ trên xuống dưới, chính như Lénine nhiều lần tuyên bố, cũng như đã được ghi rõ trong điều 16 và 17 của nội qui tổ chức này..

Họ Hồ còn bất trí ở chỗ không ý thức nổi sự nguy hiểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ trương bạo động lịch sử, đấu tranh giai cấp, một lời kêu gọi nội chiến triền miên, đưa đến cảnh con đấu bố, vợ tố chồng, bạn bè tìm cách sát hại lẫn nhau, biến xã hội thành một xã hội thú vật, cấu xé lẫn nhau.

Ngoài nội chiến, họ Hồ và con cháu còn đưa đất nước chúng ta vào cảnh ngoại chiến, biến nước Việt thành bãi chiến trường cho cuộc tranh hùng tư bản - cộng sản ; dân Việt là nạn nhân.

Người xưa có nói : « Việc binh là việc nguy hiểm ; nên dùng tạm chớ nên dùng lâu !

« Việc binh như lửa. Dùng lửa lâu ngày có hại vào thân . »

Chúng ta thấy trong lịch sử cận đại vừa qua, ba quốc gia bị chia đôi : Đức, Hàn và Việt Nam. Giới lãnh đạo Bắc Hàn và Đông Đức là những người có trí, hiểu sự tàn hại của chiến tranh, nên không gửi quân qua đánh Tây Đức và Nam Hàn. Trong khi đó Hồ chí Minh và những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam là những kẻ bất trí, không những gửi quân đánh vào miền Nam, mà còn gửi quân đánh Căm Bốt, rồi hăm he đánh cả Thái Lan vào những năm của thập niêm 80. Họ là những kẻ không nghĩ đến dân, đến nước, và còn hãnh diện đi làm tay sai ngoại bang ; như họ Hồ bất trí tuyên bố : « Tôi không có tư tưởng gì cả, tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ . » Còn Lê Duẫn thì trâng tráo nói : « Chúng tôi đánh đây là đánh cho Liên Sô và Trung Cộng. »

I I I ) Hồ chí Minh bất tín

Khi cướp được chính quyền, họ Hồ đã hứa với dân là sẽ mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân, với tiêu đề: “ Việt Nam dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc “. Suốt trong thời kỳ họ Hồ nắm chính quyền và cho tới ngày hôm nay, chúng ta thấy gì ? Việt Nam có dân chủ, tự do không ? – Không. Việt Nam có độc lập không ? – Không. Dân Việt có ấm no, hạnh phúc không ? – Không.

Việt Nam hiện nay không những không độc lập chính trị, mà còn bị lệ thuộc Trung Cộng về kinh tế và văn hóa, hàng hóa, phim ảnh Trung Cộng bày bán khắp nẻo đường Việt Nam.

Việt Nam hiện nay để theo kịp Nam dương phải mất 51 năm, theo kịp Thái lan, phải mất 95 năm, theo kịp Tân gia ba , phải mất 158 năm.

Dân Việt hạnh phúc cái gì, khi 70 đến 80% dân trong nước khi bệnh thì không có thuốc uống, hay không dám đi bác sĩ, nhất là đi nhà thương, đây là do chính Bộ Y tế Cộng sản Việt Nam thông báo. Hạnh phúc gì khi mà dân Việt phải tha hương cầu thực, phải bán thân nuôi miệng ở Căm bốt, đi làm nô lệ ở khắp mọi nơi trên thế giới.

Ông Đặng Dung, một nhà chí sĩ, có làm một bài thơ, trong đó có 2 câu: “ Thời lai đồ điếu thành công dị. Vận khứ anh hung ẩm hận đa.” Có nghĩa: Gặp thời thì những kẻ hèn mạt, chỉ đáng sách dép, bưng điếu cho người khác cũng dễ thành công. Nếu thời cơ qua, thì anh hung nhiều khi phải ôm hận. Hồ chí minh con người bất dũng, bất nhân, bất trí, bất tín, con người trên thì đội ngoại bang, gọi K. Marx và Lénine bằng cụ, trong khi đó thì gọi đức Thánh Trần bằng bác, mặc dầu đức Trần hưng Đạo sống cách Marx và Lénine cả sáu bảy trăm năm. Con người hèn mạt, bất dũng, bất nhân, bất trí, bất tín này cũng như những tay em của nó như kẻ giết người Phạm Hùng, anh hoạn heo Đỗ Mười, cai phu đồn điền Lê đức Anh, tên bất nhân Lê đức Thọ, đã trở thành quỉ. Nói như ông Lê xuân Tá, cựu Phó Trưởng ban Khoa học và Kỹ thuật Trung Ương đảng Cộng sản Việt Nam:

“ Sự ngu dốt và thấp hèn tự nó không đáng trách và không làm nên tội ác. Nhưng sự ngu dốt và thấp hèn mà được trao quyền lực và được cấy vào vi trùng ghen tỵ, thì nó trở thành quỷ nhập tràng.

“ Và con quỉ này, nó ý thức rất rõ và mau lẹ rằng cái đe dọa quyền và lợi của nó, chính là sự hiểu biết, trí thức, văn hóa và văn minh; nên nó đã đánh những thứ này một cách dã man, tàn bạo, không thương tiếc. Nhân Văn giai phẩm ở Việt Nam là vậy; Cách mạng Hồng vệ binh ở bên Tàu là thế. Nhưng những ngu dốt và thấp hèn đã trở thành sỏi thận, sỏi mật, sơ gan, cổ trướng trong lục phủ ngũ tạng của chế độ cộng sản, khiến cho chế độ này không ai đánh mà tự chết. “


Đất nước Việt, dân Việt đang bị những quỉ lãnh đạo, thì làm sao khá đuợc. Để khá đuợc, chỉ còn con đuờng duy nhất, đó là làm thế nào để bọn quỉ không còn nữa, để nhường chỗ cho những người có tài, có đức, qua những cuộc bầu cử dân chủ thực sự, chứ không phải là những cuộc bầu cử giả dối: “Đảng cử dân bầu. “

Paris ngày15/02/ 2009

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2009

Cảm Nhận 30-4 - Trần Khải Thanh Thủy


Sinh năm 1960 nên ngày 30-4-1975 tôi tròn 15 tuổi, đang còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông trung học. Tin miền Nam hoàn toàn giải phóng dội tới từng công sở , xí nghiệp, trường học làm nức lòng toàn dân , nét mặt ai cũng hân hoan khúc khải hoàn ca. Lây tâm tâm trạng chung của mọi người , tôi cũng cảm thấy nhẹ bỗng như người không trọng lượng. Cảm giác của người chiến thắng, nở hoa trong hồn, vui mừng không sao kể xiết. Khắp góc chợ, vỉa hè, đâu đâu người dân cũng đưa tin nước nhà giải phóng, chế độ nguỵ quyền sụp đổ. Các quầy báo đông nghịt người xếp hàng mua báo quân đội, nhân dân, Hà Nội mới, để xem tin chiến thắng . Một cuộc cách mạng long trời, lở đất, một chiến thắng vĩ đại của quân và dân Việt Nam, cũng là một cuộc cách mạng mùa thu tháng 8 -1945 lần thứ hai của người Việt Nam, thời kỳ khổ ải trường kỳ kháng chiến, thắt lưng buộc bụng qua rồi ,giờ chỉ còn xây dựng đất nước to đẹp đàng hoàng gấp 10 lần xưa thôi....

Mẹ tôi mừng gấp đôi vì đã hơn 20 năm trời xa cách , nay mới gặp được chị cả, di cư vào Nam từ 1954 theo chồng. Người chị mà vì có họ hàng dây mơ, rễ má, máu mủ ruột thịt mà cả nhà phải ngậm đắng, nuốt cay, tám anh chị em trong nhà, kể cả mẹ tôi không ai được kết nạp đảng dù thoát ly, làm đường, thanh niên xung phong từ năm 16 tuổi, phải sống, cống hiến, lao động và chịu đựng hơn gương Bác Hồ vĩ đại cả ngàn vạn lần , vẫn ra rìa, vì trong gia đình có người đầu hàng , theo địch... một vết nhơ trong gia đình, dòng tộc mà ngay cả khi thống nhất đất nước vẫn không thể nào gột rửa được

Loay hay vất vả mãi, tận năm 1976 mẹ tôi mới xin được cán bộ tổ chức cơ quan một tờ giấy phép vào Nam ( thời gian đầu, nhà nước chỉ xét các đối tượng trong diện vợ chồng, con cái, bố mẹ...) khỏi phải nói đến sự mừng tủi của hai chị em sau 21 năm xa cách. Bác ôm lấy mẹ tôi khóc khi hay tin cả bố và mẹ đẻ đã mất ngay sau khi tiến hành cải cách ruộng đất, nhà bị đưa vào diện địa chủ, bóc lột. Ông tôi khi ấy đang làm hiệu trưởng trường cấp I, vì uất ức mà phải giằng kính khỏi mắt đập mạnh xuống nền nhà cho mắt kính vỡ tan để lấy một mảnh nhọn và sắc nhất rạch ruột tự tử ngay trước mặt cán bộ cải cách...Khi cả đoạn ruột lòi ra ngoài ổ bụng, một viên bác sĩ người Pháp vội vàng chạy đến băng bó, cấp cứu, nhưng ông tôi đưa tay ra hiệu không cần thiết, kèm câu nói chứng tỏ sự lựa chọn đúng đắn của mình: "Một xã hội mà kẻ vô văn hoá lên cầm đầu, trừng trị người lương thiện, cũng là người đã góp phần nuôi cả đại đội chiến sĩ trong nhà ăn no đánh thắng, giết giặc, lập công...thì xã hội ấy chỉ còn là sự đồi bại, tha hoá, cướp bóc, trừng trị, không những không đưa đất nước ra khỏi quỹ đạo luẩn quẩn của nghìn năm Bắc thuộc, mà còn không bằng xã hội trong thời kỳ phong kiến thối nát"...Một xã hội bất công, vô lý như thế thì tôi còn sống làm gì ? Làm sao cam tâm nhìn cảnh đất nước bị tàn phá, lương dân bị giày xéo ....Đời người chỉ chết có một lần, sống mà phải mang vết nhơ gia đình mình là địa chủ, chuyên áp bức, bóc lột dân lành thì sống sao nổi?

Nói lại những lời hùng hồn trăng trối cho viên bác sĩ người Pháp nghe xong, ông tôi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng. Bà tôi không chịu đựng nổi cái chết phi lý, đường đột của ông, lại chứng kiến cảnh mất nhà, cướp đất của lũ cán bộ cốt cán, từng ăn mòn bát, ngồi mòn chiếu nhà mình, một điều u, hai điều con, nay giở mặt gọi bà là địa chủ bóc lột, đòi đưa ra đấu tố, trong khi con cái ly tán khắp các phương trời góc bể, Từ Hải Phòng, Lạng Sơn, Hà Tây , Hà Nội v.v nên cũng ốm đau , mòn mỏi, đành nhắm mắt, xuôi tay khi tuổi đời chưa tròn một vòng hoa giáp...

Khóc cho bố mẹ chán, bác tôi quay ra khóc cho mình, cho cả đại gia đình 9 đứa con, gần 30 chục cháu nội ngoại cùng 9 cặp dâu rể đang trong cảnh bấn loạn tinh thần. Chỉ vì tin ông bà còn sống mà nấn ná ở lại, cấm con cái không được "lầm đường lạc bước theo giặc, bỏ quê cha đất tổ mà đi"... Giờ cơ hội đã lỡ, tất cả đều trong cảnh sống giở chết giở, 6 anh con trai là sĩ quan cộng hoà đều phải đi học tập cải tạo mút mùa, vợ con không ai nuôi nấng, chăm sóc ...Đang từ xã hội tiêu thụ, gi gỉ gì gi, cái gì cũng có, thành xã hội bao nhiều, cấp ít, gi gỉ gì gi, cái gì cũng thiếu ...ai cũng hoang mang chán nản, bởi cuộc sống đã bị cướp đi những gì quý giá, căn bản nhất, không còn là sống mà chỉ là sự tồn tại, vạ vật cho qua ngày đoạn tháng, đau khổ đến chết và đói nghèo đến chết, thậm chí có người không chịu đựng nổi cảnh địa ngục trần gian do bọn phát xít mới đưa lại đã lặng lẽ tìm đến cái chết, hòng làm đứt tung mọi sự ràng buộc, gian díu với đời

Khi tôi vào, điều cảm nhận đầu tiên của tôi là sự hụt hẫng, suốt dọc đường trên chuyến tàu xuyệt Việt, tầm mắt chỉ được nuôi dưỡng bằng cảnh nghèo, cái đói . Không phải "Đường vô xứ nghệ quanh quanh, non xanh, nước biếc như tranh hoạ đồ" như thơ Tố Hữu miêu tả mà là :

Đất nước mình đâu cũng mái nhà gianh ,
Gương mặt người ai cũng xám xanh ,

Đơn giản vì đồng đất bạc màu, hoang hoá, hết tím hoa mua lại trắng mùa hoa sở. Thứ hoa dại vốn chỉ mọc ở ven đồi, sườn núi, đẹp thì có đẹp nhưng không nuôi sống nổi con người.

Vào đến Sài gòn, nếu nhà văn Dương Thu Hương đã phải ngồi thụp xuống vỉa hè vì đau xót, hẫng hụt trước một sự thực trần trụi: Nền văn minh mọi rợ chiến tháng nền văn minh hiện đại thì tôi cũng có những nỗi buồn tương tự. Đất nước liền một dải, non sông thu về một mối, nhưng lòng người đầy cách ngăn. Một con sông bến Hải, một vĩ tuyến 17 ngày và đêm, một nhịp cầu Hiền Lương vẫn tồn tại trong lòng mỗi con người. Dù là tình máu mủ, ruột thịt, anh em, họ hàng, bà con, cô bác vẫn không sao xoá nhoà được ranh giới của kẻ thua, người thắng, kẻ bắc, người Nam, kẻ lấn chiếm, người bị động...Khắp thành phố, sự phân biệt kị thì vẫn hằn lên trong từng ánh mắt, giọng nói, điệu cười. Các anh chị tôi tiếp đón một cách vừa phải , qua quýt, không thân cũng chẳng sơ. Nếu không có bác tôi làm cầu nối hẳn cuộc đón tiếp còn gượng gạo, buồn tủi hơn nữa. Đơn giản vì tôi là người miền Bắc, người của phe đối địch, bị đầu độc từ tấm bé, nên mọi lời ăn tiếng nói đều do "cha mẹ sinh con, đảng đoàn xã hội chủ nghĩa sinh tính"...Động mở miệng là nhắc đến bác Hồ, gọi tên thành phố cũng là thành phố Hồ Chí Minh chứ không phải Sài Gòn, càng không dám nói "Sài Gòn hoa lệ" hay "hòn ngọc Viễn Đông". Đã thế còn luôn bảo vệ ý kiến mình theo đúng đường lối, chủ trương, chính sách, quan điểm của đảng và chính phủ. Ngay cả khi bác hỏi: "Ngoài Bắc, mỗi tháng được phát mấy lon sữa, hả con?" Cũng phải lên gân, lên cốt trả lời theo đúng những lời dạy dỗ khuyên bảo của thầy cô trên lớp học của mình: "Cần gì đâu bác, không một gram sữa, không một ký thịt nào mà vẫn đánh thắng bè lũ đế quốc và tay sai đấy thôi".

Biết bao ông bố bỏ lại vợ con ra căn cứ địa cách mạng rồi tập kết ra Bắc, trở về dắt theo cả vợ lẽ, con thêm . Biết con trai đi học tập cải tạo, con dâu một nách 4,5 con nhỏ, vẫn không một lần lên trại thăm nuôi, còn dài giọng trách: - "Ai biểu nó vô Việt Nam cộng hoà, quay súng bắn lại cách mạng, Giờ tao vô trại cũng có bảo lãnh cho nó ra được đâu"... khiến con dâu vì nghèo, đói, uất ức mà phải tự tử, bỏ lại bốn, năm đứa con côi cút, găm thêm vào lòng người chồng đang ngồi tù cải tạo một vết thương sâu hoắm

Trong khi người miền Bắc thích ăn món cua bể (bê của) hàng hoá rùng rùng chuyển động ra phía bắc, thì trong nam cứ dần dần nghèo đi, câu hát của người dân miền Nam như lưỡi dao đâm vào tim người miền Bắc đau nhói: " Đi ta đi giải phóng miền Nam, đi đến khi nào người dân không còn cái quần, thì ta còn chiến đấu, quét sạch chúng sinh , lời bác sui dại bên tai, chiến đấu cho đến ngày Nam, Bắc nghèo bằng nhau".

Một dân tộc bị qúa khứ lịch sử chia đôi thành hai vùng địa lý, chính trị, thuộc về hai chiến tuyến. Một vết cắt xuyên thấu mỗi gia đình, số phận, tưởng chừng giải phóng được rồi là tình người, no ấm về theo. Ai ngờ, vì những chính sách cai trị man dợ kéo dài mà kéo theo bao cảnh ba đào loạn ly, trước tiên là cảnh chia đàn xẻ nghé của tất cả các gia đình "nguỵ quân, nguỵ quyền" chồng, con, anh em vào trại cải tạo, vợ con ở lại nheo nhóc đói khổ, phải đương đầu với cuộc sống vô cùng khắc nghiệt cùng bao quyết sách man rợ, sai lầm chết người của đảng cộng sản: Tài sản bị cướp trắng sau cải tạo công thương nghiệp, giết chết cái gọi là mầm mống tư sản mại bản để đề cao lý tưởng xoá bỏ chế độ người áp bức bóc lột người. Đổi tiền "Nguỵ " ra tiền đảng với gía trị gần như không, đến mức người dân phải thốt lên đầy cay đắng khi cầm một nhúm tiền của đảng, bác trên tay:

Bố cạn tiền rồi cán bộ ơi,
Đổi tiền mà sao đến nỗi này
Chưa tiêu đã hoá tiêu đi hết
Chú phỉnh tôi rồi, chính phủ ơi"

Trong khi đại bộ phận người dân thành phố nghèo đi trông thấy, thì những anh bộ đội cụ Hồ, ba lô con cóc lép kẹp trên lưng với chiếc khung xe đạp, con búp bê nhựa xấu xí hôm nào, bỗng giàu lên một cách đáng ngờ. Từ vô sản thành hữu sản, còn người dân chịu cảnh đấu tranh giai cấp, cải tạo công thương nghiệp , nên đi từ hữu sản thành vô sản. Không những khốn khổ vì đời sống thấp kém, còn khốn khổ vì bị cán bộ cách mạng đè đầu cưỡi cổ, sách nhiễu lung tung.

Biết bao cán bộ lãnh đạo với khẩu hiệu - tưởng chừng bất di bất dịch như một chân lý sống: "Một cái kim, sợi chỉ của dân không lấy" , bỗng vụt hiện lên thành các quan cách mạng, quan đồng chí. Vừa ngủ quên trên ngai vàng quyền lực, chia nhau quả thực, vừa quay lưng lại nỗi khổ của dân, hà hiếp cai trị dân, dù đó là những người từng nuôi dưỡng bao bọc che chở cho mình trong suốt những ngày cách mạng còn gian khổ cam go nhất. Bao nhiêu tàn dư đế, quốc, phong kiến, tưởng đào tận gốc, trốc tận rễ bỗng rùng rùng trở lại, gấp cả trăm, nghìn lần những tiêu cực yếu kém của thời kỳ tồi tệ, hà khắc, phong kiến trước kia- tàn dư của chế độ mới xã hội chủ nghĩa. Càng giành được chính quyền, giành được quyền tự chủ, tự quyết thì càng lòi sự dốt nát, bất lực trong phương pháp quản lý của đảng cộng sản. Đất nước liền một dải nhưng lại thực hiện chính sách, ngăn sông, cấm chợ, khiến 400 quận, huyện trong cả nước biến thành 400 lô cốt, pháo đài riêng biệt...Từ Lạng Sơn tới mũi Cà Mau, đất nước bị băm nát thành trăm nghìn mảnh vụn bởi các trạm gác, chốt canh, nhân viên thuế vụ v.v Chỉ đem cân gaọ, lạng thịt từ tỉnh này sang tỉnh khác, huyện này sang huyện khác đã bị coi là buôn lậu và bị phạt, bị bắt, bị nhốt vô tội vạ, khiến lòng dân tứ tán ...Làn sóng di tản ồ ạt, di tản bằng mọi giá, gần 90% các sĩ quan ra khỏi trại cải tạo trở về là cùng vợ con bỏ đất nước ra đi, tạo thành một làn sóng lưu vong nhiều không kể xiết, nạn thuyền nhân khủng khiếp nhất thế giới...Chưa kể các trại tù mọc lên như nấm suốt dọc bờ biển Đông để nhốt người vượt biển. Hiếm có người nào đi một lần đã trót lọt. Người bỏ mình trên biển thẳm, người bị bắt hết lần này lần khác, người trở thành nạn nhân của bọn hải tặc Thái Lan v.v Đau thương nhiều không kể xiết... Đất nước không phải của toàn dân tộc Việt Nam như lời cha già dân tộc nói mà chỉ là của một phe nhóm những kẻ lãnh đạo cộng sản, còn những người dân thấp cổ bé học thì thuộc tầng lớp bị trị, bị cai quản, đầy áp đặt thô bạo và phân biệt đối xử không khác gì bài học lịch sử đau xót của cả nghìn năm trước đó: "Được làm vua, thua làm giặc". Hễ là người miền Bắc dù không có chứng chỉ văn bằng, năng lực lãnh đạo, quản lý, nhưng đều được cất nhắc lên thành cán bộ. Con em " Nguỵ quân, nguỵ quyền" bị phân biệt đối xử, bị xem xét về lý lịch, thành phần . Bao nhiêu khẩu hiệu dùng để tập hợp lực lượng, thu hút quần chúng sớm đến ngày chiến thắng, giờ trở thành đầu môi, chót lưỡi , thành sự bội ước với số đông đồng bào, đồng chí, anh em, cô bác. Xã hội bị tha hoá , tuột dốc từng ngày. Thời điểm trước "giải phóng", miền Nam Việt Nam dưới sự chỉ đạo của chính thể cộng hoà, 21 triệu người đã ra khỏi sự đói nghèo luẩn quẩn của nghìn năm lịch sử, nay nhờ được đảng cộng sản "giải phóng" mà cả nước húp chung một niêu cháo loãng, cả nước lặn ngụp trong những ô tem phiếu, nhá bo bo, mì hạt sái hàm, ăn khoai và củ mì đớ họng. Từ chỗ vượt xa Nam Hàn và Thái Lan trong thập kỷ 70, thì ngay sau "giải phóng" một năm, đã kém xa Nam Hàn và Thái Lan về mọi mặt. Mượn lý tưởng "xoá bỏ chế độ người bóc lột người" để liên tục đánh vào tầng lớp hữu sản, để dần dần thay thế vai trò, từ vô sản thành hữu sản và ngược lại . Ngọn cờ của giai cấp vô sản càng giương cao thì tầng lớp cán bộ, lãnh đạo đảng càng giàu lên một cách bất ngờ, trong một thời gian vô cùng ngắn ngủi , trong khi bao nhiêu căn cứ cách mạng, bao nhiêu vùng nông thôn rộng lớn phải sống cảnh giật gấu vá vai, ăn bữa nay, lo bữa mai thì cán bộ cộng sản ăn chơi phè phỡn , ăn luôn cả thành tựu cách mạng bao năm gây dựng trong lòng dân . Khắp thành phố khi đó là một bức tranh hiện thực trơ trụi , xám mgoét, hậu quả tất yếu của sự lãnh đạo dốt nát, cộng với chủ nghĩa cơ hội, ăn xổi ở thì, cũng như kiêu ngạo, ảo tưởng của kẻ chiến thắng. Vừa công kênh cái dốt, đề cao cái ác, lại vừa giày xéo lên lương tâm của những người lương thiện, chưa kể còn cố tình bám vào những lý thuyết sách vở lỗi thời là chủ nghĩa Mác, Lê để níu kéo sự phát triển hài hoà của cuộc sống . Càng giương cao ngọn cờ "bách chiến bách thắng" trong mọi lĩnh vực thì càng khủng hoảng, thua lỗ. Càng nêu cao khẩu hiệu "nói thẳng , nói thật , đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật" thì càng dối lừa, gian trá, khiến cho bài toán kinh tế mỗi ngày lại mang thêm nghiệm âm

Hàng nghìn gia đình bị dồn lên khu kinh tế mới, mới chẳng thấy đâu, chỉ thấy mênh mông mịt mùng là rừng, núi, vách đá dựng đứng. Ngày nắng rát da, đêm lạnh thấu xương. Một ngày trải đủ 4 mùa xuân, hạ, thu, đông, chẳng biết làm gì để ăn, để sống đành ôm nhau mà khóc, ôm nhau mà sợ, rồi không thể ôm nhau mà chết, đành dắt díu lếch thếch kéo nhau về lại nơi ở cũ, vạ vật nơi xó chợ, lề đường, vì nhà cũ đã được quan cách mạng chiếm cứ, trưng dụng vô điều kiện ...

Ba mươi ngày ở lại Miền Nam thâm nhập thực tế, trở ra lòng tôi trĩu nặng. Cũng như tất cả những người dân miền Nam khác trong thời kỳ đó, tôi không nhận được gì từ chế độ mới xã hội chủ nghĩa mà chỉ cảm được nỗi đau, nỗi khổ, nỗi bàng hoàng, hẫng hụt, bất bình của người dân với chính quyền cộng sản

33 năm qua rồi , nỗi đau còn đọng lại, vẹn nguyên, làm tổ, kết kén trong hồn tôi, càng ngày càng mưng mủ, và bây giờ vỡ toác trên trang giấy ...

Bệnh viện Châm Cứu 28-4-2008
Trần Khải Thanh Thuỷ

Thứ Năm, 12 tháng 3, 2009

RỒNG ĐÁ (Tập truyện) Tác giả: Lê Mai, Vũ Ngọc Tiến


1. LỜI BÂNG QUƠ


Văn chương từ cổ đã lệch về cái đẹp:

“Hồng lô nhất điểm tuyết
Thượng uyển nhất chi mai
Quảng hàn nhất phiến nguyệt”
(Mạc Đĩnh Chi) ...

Quả có thế nên các văn nhân, thi sĩ thường để hồn vất vưởng cành cây, thả mình trong gió - trăng - mây - tuyết… Nếu có bi thương lắm, họ cũng thường chỉ mượn chim sa, cá nhảy, nguyệt khuyết, hoa tàn mà tỏ bầy.

Hẹn nhau từ đã lâu rằng sẽ cùng ra chung tập sách, hai đứa tôi có hiểu điều ấy không mà lại đặt tên cho sách in chung là “Mũi uốn ván” chứ không phải là “Hoa tóc tiên” (Lê Mai) hay “Vị phồn thực” (Vũ Ngọc Tiến)?

Ơ hay, Mũi uốn ván! Văn chương gì mà thoáng đọc đã thấy sần sật như âm thanh cảm nhận được, khi nàng y tá xinh đẹp trong cơn bực bội không chích ngừa vào bắp tay, lại mắm môi phóng mũi tiêm vào mông gã trai tội nghiệp. Mũi uốn ván! Văn chương gì không viết về y học mà đọc lên lại thấy sực nức mùi kinh nhân của ê-te, cồn thuốc…

Theo thiển ý riêng của những người viết, mũi uốn ván chỉ là đưa một liều vacxin phòng chống uốn ván vào cơ thể người, cũng như tiêm phòng dịch hạch, thổ tả và bệnh dại cho nhân loại. Còn tập sách Mũi uốn ván có làm được công việc của mình không, xin cậy nhờ bạn đọc minh xét.


Lê Mai – Vũ Ngọc Tiến

MỤC LỤC

Lời bâng quơ


Truyện ngắn Vũ Ngọc Tiến:

1- Rồng đá
2- Gà ô tử mỵ
3- Âm bản chiến tranh
4- Vị phồn thực
5- Đêm của thiên thần nhạc Jazz
6- Chù Mìn Phủ và tôi
7- Ngoại tình tuổi 50


Truyện ngắn Lê Mai:

8- Cún khóc
9- Cho nó có đạo đức
10- Người đóng thế
11- Tìm cha trong gương
12- Ngày vô vi
13- Hoa tóc tiên

RỒNG ĐÁ (Tập truyện) Tác giả: Lê Mai, Vũ Ngọc Tiến

2. Rồng đá


Kim Hoà gấp cuốn sách “Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn, lặng lẽ nhìn Trần Thăng. Đã một tuần nay chị thấy chồng mình đi về như một cái bóng. Anh không nói năng, bỏ cả lệ đọc sách. Thỉnh thoảng anh uống rượu, mắt lờ đờ nhìn vào góc tối, luôn miệng thở dài. Có lúc anh cao hứng ngâm thơ Nguyễn Trãi: “Kim cổ vô cùng giang mạc mạc – Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu”. Chị là nhà nghiên cứu lịch sử nên hiểu xuất xứ hai câu thơ ấy Nguyễn Trãi viết khi cáo quan về ở ẩn trên núi Côn Sơn. Vào một chiều cuối thu sắp sang tiết lập đông, ông nhìn thấy từng đàn mây trắng đùn từ phía biên ải xa mờ kéo đến, dòng sông Đá Bạc ầm ào vỗ sóng và rừng cây sau lưng xào xạc trút lá khô vàng rơi đầy mặt đất. Ông tức cảnh, sinh tình mà ngâm hai câu thơ bày tỏ nỗi lòng mình. Nhưng Thăng đâu có giống tình cảnh Nguyễn Trãi. Anh là giáo sư tiến sĩ toán học, sao anh không an phận với những công trình lý thuyết về toán tin học của mình. Chức viện trưởng lâu nay chỉ tổ làm anh suốt ngày bận bịu với những vụ linh tinh, biến anh thành thứ viên chức hành chính tầm thường, báu gì. Đã thế, cái Viện cỏn con của anh có một dúm người mệnh danh là “nhà” hay “lều” khoa học cả đấy, mà sao quanh năm suốt tháng vẫn gầm ghè, đấu đá tranh ăn, giành ghế. Họ ăn không nói có, tung lời đặt chuyện về nhau chẳng khác gì mấy chị hàng tôm, hàng cá ngoài chợ. Hình như đam mê quyền lực là thứ bệnh thâm căn, cố đế của cánh đàn ông. Sa đà vào đó, mặt người bỗng trở nên lem luốc, chẳng ra mặt người. Biết thế mà có ai chịu từ bỏ dễ dàng đâu! Nhiều lần anh thanh minh với chị rằng không phải anh ham quyền chức, nhưng làm viện trưởng sẽ thuận lợi cho công trình nghiên cứu và có dịp giao tiếp học hỏi với thế giới bên ngoài. Chị biết đó chỉ là nguỵ biện. Làm vợ ai chẳng muốn hãnh diện về chồng. Anh làm sếp có xe đưa, xe đón, thỉnh thoảng lại xuất hiện trên ti vi, đài báo thì vợ con cũng nở mày mát mặt. Chồng đi Tây, đi Tàu, chị cũng có thêm đồ này, thứ nọ để khoe với chị em, bè bạn. Nhưng chị cũng là nhà trí thức. Chị khao khát anh có những công trình khoa học sáng giá để lại cho đời, lưu danh sử sách. Ngày ấy chị yêu anh vì anh đẹp trai, thông minh, lịch lãm và rất hồn nhiên yêu đời. Anh là nhà toán học trẻ tuổi, có công giúp các nhà vật lý bên quân đội tính toán ra vùng mù sóng nhiễu máy bay B52. Nhờ đó mà mấy vị tướng lĩnh quân đội đã bố trí các trận địa tên lửa, các trạm ra đa trong vùng mù nhiễu sóng ấy để phát hiện và bắn rơi máy bay địch, làm nên chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” ở Hà Nội. Nếu anh cứ vẫn yên tâm theo đuổi các công trình toán học, biết đâu sẽ có nhiều cống hiến lớn khác trong thời bình. Chức viện trưởng và quyền lực như ma ám, làm anh u mê chỉ biết say sưa lao vào các vụ đấu đá, củng cố quyền lực. Rất nhiều năm rồi, chị chưa thấy anh có thêm công trình phát minh nào mới, mặc dù học hàm, học vị của anh đã lên tới tột đỉnh. Anh trở nên người thích xu nịnh, háo danh và mất cảnh giác. Đợt bầu viện trưởng vừa rồi anh bị hạ bệ êm ru cũng vì mất cảnh giác. Chắc anh nghĩ rằng đối thủ của mình mới ngày nào chỉ là một thằng cử nhân “gia công” dốt đặc cán mai, làm sao dám so bì uy tín với anh trong giới khoa học. Nhưng anh đã lầm, chị là phụ nữ nên nhạy cảm và đã sớm nhắc anh đề phòng. Mấy năm trước vợ hắn buôn bán phất lên nhờ mấy vụ sốt giá nhà đất, hắn có tiền chạy vạy để được làm phó tiến sĩ trong nước. Anh là người hướng dẫn phụ, nhưng nể lời ông bạn làm giáo sư ở trường Đại học đã gần như viết hộ luận văn tốt nghiệp cho hắn. Mỗi lần thấy hắn đến nhà khệ nệ ôm gói to bọc nhỏ, mắt la mày lét, miệng luôn vâng dạ, hai tay xoa vào nhau, lưng hơi cúi khòng, chị thấy khinh bỉ đến lợm giọng. Chị nhắc anh nhớ lại lời của Jo-han Gốt-liep Phích-tơ, nhà triết học cổ điển Đức: “Kẻ nào làm thuộc hạ mà lúc nào trước mặt anh cũng sẵn sàng quỳ mọp xuống đất một cách đê tiện thì sớm muộn gì nó cũng phản anh”. Thật lòng mà nói, khi nghe tin anh mất chức viện trưởng chị cũng hơi choáng váng, hụt hẫng. Nhưng chị không ngờ anh hốc hác, gày rộc, chán đời và mất thăng bằng đến như vậy. Chị nghiên cứu lịch sử, hiểu thấu mọi lẽ hưng phế của các triều vua. Chị là người ngoài cuộc nên có lẽ chị bình tĩnh, sáng suốt hơn anh chăng. Chị muốn an ủi, động viên, nhưng anh cứ ậm ừ rồi lảng tránh. Tính anh xưa nay không muốn làm phiền người khác. Nhưng chị là vợ, gắn bó suốt đời với anh, chia ngọt sẻ bùi cùng anh. Chị sẽ phải làm gì để lấy lại thăng bằng cho anh, để anh lại tiếp tục say sưa với công trình khoa học như ngày xưa anh say sưa tính toán ra vùng mù sóng nhiễu của B52?

Kim Hoà đứng dậy, nhẹ nhàng đi về phía chồng. Trần Thăng vẫn nằm dài trên ghế xích đu đặt gần ban công để anh ngắm trời, ngắm đất. Đêm cuối tháng tối thâm, không một vì sao, vẳng tiếng côn trùng eo óc, nỉ non. Chiếc đôn sứ bên cạnh với bao thuốc gần rỗng và chiếc gạt tàn đầy ặc các mẩu đầu lọc. Xưa nay anh vốn ít hút, cứ thế này thì đen sì hai lá phổi còn gì! Chị thầm nghĩ, lắc đầu chua xót nhìn anh, tròng mắt ươn ướt. Lồng ngực của chị như có gì chèn tức đến ngẹt thở. Chị âu yếm quàng tay lên cổ, ray ray cằm lên mái tóc bồng đốm bạc của anh.

- Em không đọc sách nữa à? – Anh hỏi.
- Không. Đêm nay em muốn mình đi ngủ sớm. Chiều em một tí, đi mình! -Chị lắc người nũng nịu như hồi trẻ. Tay chị vuốt lên ngực anh để trần.
- Nghĩ mà ngao ngán cho đời, không ngủ được.
- Quên mọi chuyện đi anh. Nghĩ lắm cho già người.
- Quên sao được hở em. Mình dày công xây dựng Viện từ khi còn trứng nước, công lao và học vấn là thế, bỗng nhiên bị thằng mất dạy nó đá đít với lý do trẻ hoá cán bộ. Nếu phải giao quyền cho mấy cậu vừa tốt nghiệp tiến sĩ ở nước ngoài về đã đành một nhẽ, đằng này...
- Quan nhất thời, dân vạn đại mà anh. Xưa nay có triều vua nào ngự trị bền mãi đâu anh.
- Em lại sắp lên cơn bệnh nghề nghiệp, bà phó tiến sĩ sử học của anh ạ! Hôm nay anh hết hứng thú nghe em kể chuyện xưa, tích cũ rồi. Bụng anh đang rối bời, chán phè. Ước gì anh hoá rồng lúc này, bay tít lên cao nhìn rõ mọi cuộc đấu đá, tranh giành ở khắp thế gian.
- Vậy chúng mình buông màn đi nghỉ. Nằm trên giường em sẽ kể chuyện rồng cho anh nghe.

Chị dìu anh đứng dậy, đi về phía giường, nhẹ nhàng đặt đầu anh xuống gối và tháo dép cho anh. Lòng chị lâng lâng sung sướng khi thấy vầng trán anh bớt nhăn, khoé mắt anh sáng lên nụ cười hiếm hoi. Chiếc màn tuyn xanh mát buông xuống, thoảng bay mùi nước hoa chị vừa kín đáo phun nhẹ bốn góc màn để xua muỗi. Trần Thăng xoay người nhìn sâu vào mắt vợ. Anh vuốt nhẹ mấy sợi tóc mai, mỉm cuời, nháy mắt hỏi yêu:

- Chuyện rồng của em thế nào? Ở bên Tây người ta xem rồng là ma. Vợ anh đừng kể chuyện gì về rồng làm anh sợ ma mất ngủ là bắt đền đấy.
- Sao đêm nay anh bỗng thành con nít sợ ma thế?
- Thì chuyện bầu viện trưởng ở chỗ anh cũng là ma hiện đại còn gì.
- Nói cho cùng trên đời làm gì có rồng - Chị lựa lời.
- Em nói đúng. Nếu cắt bỏ cái đầu rồng có bờm như sư tử đi thì nó có khác gì con rắn, con rết hay con giun đất, em nhỉ!
- Bởi vì rồng không có thật nên mới linh thiêng. Lúc đầu nó tượng trưng cho sức mạnh huyền bí của thiên nhiên có thể hô gió, gọi mưa. Lâu dần nó được con người huyền hoặc, gắn nó tượng trưng cho vương quyền và sức mạnh của vua chúa.
- Đời thật thú vị! Cứ cái gì hư thực, thực hư bỗng thành thiêng liêng, uy quyền trùm khắp thiên hạ. - Chẳng có gì là uy quyền tuyệt đối anh ạ! Em nghiên cứu rồng qua các triều vua, thấy thế rồng cũng biến đổi theo thời cuộc, theo quyền uy và điểm yếu của các ông vua. Triều Lý, vương quyền còn đang manh nha, chưa với tới được các bộ tộc, bản làng ở rừng núi xa xôi. Người ta phải mượn tích Âu Cơ có trăm trứng để nhắc nhở các tộc trưởng miền núi thần phục vương triều. Vậy nên thế rồng thời Lý có thân cuộn lại thành khúc tròn và trong mỗi khúc cuộn ấy chứa biểu tượng một quả trứng rồng, theo tích Lạc Long và Âu Cơ. Sang đến thời nhà Lê, nhất là triều vua Lê Thánh Tông, vương quyền được củng cố, vươn ra thâu tóm các bộ tộc xa gần, lấn át cả vua nước Chàm và Ai Lao. Thế rồng thời Lê trở nên lượn sóng hình sin, rất tao nhã và thanh thản, hài hoà. Đến thời nhà Mạc, các nghệ nhân ngầm có ý ám chỉ vương quyền đang trong tay cha con một ông võ tướng tiếm ngôi, biến vị. Thế rồng thời nhà Mạc biến đổi một cách kỳ lạ. Lưng rồng không còn uốn éo hình sin như thời nhà Lê mà gồng lên như một cái yên ngựa. Nó khác nào con rồng thời Lê vừa bị đánh một côn trượng đau oằn lưng. Dưới triều nhà Nguyễn, văn hoá phương Tây tràn qua, tư tưởng và lối sống của con người trở nên phóng khoáng, không câu nệ, chấp nhặt theo các giáo lý các bậc hủ nho, nên các nghệ nhân điêu khắc sáng tác đủ các thế rồng không theo một khuôn mẫu nhất định nào. Cái lạ là rồng vẫn ra rồng, không thể lẫn với con vật nào khác. Một điều lạ nữa là có lẽ rồng thời Nguyễn biến đổi nay thế này mai thế khác nên đã ứng nghiệm, vào cuối triều Nguyễn vương quyền được thay như thay áo. Có ông lên ngôi được ba tháng, có ông được ba ngày...

Chị ngả đầu vào ngực anh. Trần Thăng nằm yên tận hưởng sự vuốt ve và nghe vợ kể chuyện rồng. Anh bỗng thấy thanh thản. Anh chạnh nhớ về miền quê Kinh Bắc. Nhớ cái làng nhỏ bên bờ đê sông Đuống nơi chôn nhau, cắt rốn và tuổi thơ anh thả diều, bắt bướm. Lòng anh nôn nao nhớ từng con đường gạch lát nghiêng, cây đa, bến nước, sân đình. Ôi! Cái ngôi đình nhỏ ở quê anh có tự bao giờ sao anh chẳng biết, chẳng bận tâm hỏi rõ ngọn ngành. Ở hai bên thành của bậc tam cấp bước lên thềm cao ngôi đình cổ ấy có hai con rồng đá, sao anh chẳng nhớ nó cuộn khúc ủ trứng rồng, hay lượn sóng hình sin, hay oằn lên như yên ngựa. Thăng nhớ thằng bạn nối khố có tên là Tươi mà suốt đời chỉ gặp chuyện buồn. Tươi ra trận, trở về với một chân và nhằng nhịt vết sẹo ở lưng, ở bụng. Giờ đây Tươi đang yên phận làm anh chăn vịt. Có lẽ bù lại Tươi được Thảo yêu, chờ đợi gần chục năm ròng. Họ đã có với nhau cả một nửa tá thị mẹt và đang sống nheo nhóc ở làng quê nghèo bán sơn, bán địa. Vậy mà sao những lúc vinh hiển, vào Nam ra Bắc, đi Tây đi Tàu, anh chẳng có chút bận tâm mua ít quà nhỏ cho sáu cô lọ lem của Tươi và Thảo... Thăng nhớ như in cô bé Thảo ngày nào. Nàng kém anh và Tươi chừng năm sáu tuổi. Khi hai đứa học cấp hai thì Thảo còn bé tí, suốt ngày cùng đám trẻ mẫu giáo trèo lên, trượt xuống trên lưng hai con rồng đá. Hợp tác xã hồi ấy biến ngôi đình cổ thành nhà trẻ, mẫu giáo. Trẻ con nhà quê thường lấm lem nhếch nhác, có khi cởi truồng đến lớp. Thăng và Tươi hay ra sân đình trêu Thảo: “Lêu lêu có đứa cởi truồng!” Phải đến khi Thảo khóc ré lên hay cô giáo ra quát mắng, hai đứa mới chịu rủ nhau ra ao tắm hay mò ốc vặn. Năm qua đi, tháng qua đi, thoắt cái Thăng đã trở thành chàng sinh viên khoá bảy trường Tổng hợp. Lần trở về làng, anh không dám tin ở mắt mình trước một cô Thảo mắt bồ câu lúng liếng, bộ ngực căng tròn, tấm thân thắt đáy lưng ong. Anh và Tươi cùng ngấm ngầm mê Thảo, cùng ganh đua để được Thảo yêu. Hoá ra anh chàng Tươi củ mỉ cù mì mà có duyên ngầm nên đã chiếm được trái tim nàng... Thăng nhắm mắt mơ màng thả hồn theo dòng hồi ức. Hoà bồi hồi nhìn chồng đang mỉm cười, nụ cười làm sáng cả đêm tối trăng. Chị khẽ lay anh:

- Mình! Mình buồn ngủ rồi à?
- Không, anh đang nhớ quê, nhớ bạn bè thủa ấu thơ, nhớ đôi rồng đá ở hai bậc tam cấp ngôi đình.
- Vậy thì mai chúng mình về quê, anh nhé!
- Thế thì hay quá, anh đang muốn vậy.

Họ ôm nhau, xoắn chặt vào nhau như đôi rồng phun nước. Hơi thở hai người làm ấm cả trời đêm mùa thu se lạnh, lác đác hạt sương rơi. Đêm cuối tháng chìm sâu, huyền bí, ẩn hiện những bóng rồng giữa bốn bề lặng im bao la trời đất và cả trong cõi nhân sinh muôn thủa những kiếp người.

Sáng. Hoà tỉnh dậy sớm. Chị sợ làm động giấc của anh sau nhiều đêm thao thức, dằn vặt. Chị khẽ khàng trườn qua người anh, trượt gót xuống nền nhà. Hoà đẩy cửa ra ban công hít thở không khí trong lành buổi sớm mai. Phía rạng đông bắt đầu hé sáng. Những mái nhà rêu mốc của khu phố cổ đang ửng dần những tia nắng màu hồng nhạt, lẫn pha sắc tím, chiết quang từ những hạt sương li ti. Nó bò dần theo các ống máng và chuyển sang màu đỏ. Từng vạt nắng lung linh lan trải trên hàng sấu và trên hè phố loáng thoáng rơi mấy quả sấu chín vàng vỏ đã nhăn nheo, báo mùa thu sắp hết. Hoà chợt giật mình nhận ra một mùa đông sắp về theo ngọn gió heo may trên các ngọn mía bên đê sông Đuống quê chồng. Đã nhiều năm bận rộn với công việc nghiên cứu, việc nhà lút cổ, Hoà không về quê. Những ngồng cải hoa vàng sau ngôi nhà ngói năm gian thân thương ở vùng quê Kinh Bắc như vẫy gọi chị về. Hoà thẫn thờ vơ vẩn hồi lâu rồi quay vào tủ lạnh, lấy quả bầu dục với hai gói mì xuống bếp. Chị ý tứ giấu một nửa trái bầu dục dưới đáy bát của anh. Nửa còn lại chị chia đều hai bát. Các con đã trưởng thành, đi xa. Ở nhà ăn miếng gì ngon chị cũng nhường anh. Chị khẽ mỉm cười vì nếu anh biết nhất định sẽ đòi vợ đổi bát và ép chị ăn bằng hết mới chịu đụng đũa. Hạnh phúc đơn sơ thầm kín này chị sẵn sàng đánh đổi mọi thứ quyền chức, giàu sang để được nó. Thăng đã nghe thấy tiếng lục đục dưới bếp và tỉnh dậy. Anh khăng khăng giành lấy chậu quần áo từ tay chị mang lên sân thượng phơi. Hai người thủng thẳng ăn hết bát mì. Chị tất tưởi đi chuẩn bị hành lý về quê, còn anh ngồi uống cà phê vợ đã pha sẵn. Thăng không quên nhắc vợ gói ít kẹo và mấy mảnh vải hoa mang về cho mấy đứa cháu ngoại của Tươi và Thảo.

Xe bon bon trên con đường nhựa rộng rênh, phẳng lì. Hai bên đường những thửa ruộng vừa gặt còn trơ lại gốc rạ nâu đen. Những chú chim gáy đi ăn sớm đang tha thẩn tìm hạt lúa sót trên các đường cày lật đất nổi gợn lên giữa cánh đồng, nhìn từ xa nom giống như vồng ngực của người thiếu nữ tuổi dậy thì. Xe đưa Thăng rẽ lên bờ đê sông Đuống vàng rực nắng, lồng lộng gió. Lòng anh phơi phới niềm vui. Con đường càng ngắn lại, tình yêu quê càng bùng cháy, thiêu đốt mọi nỗi ưu tư, phiền muộn. Câu chuyện về những con rồng qua các triều vua Hoà kể đêm qua khiến Thăng thao thiết mong gặp lại ngôi đình cổ với đôi rồng đá tuổi thơ. Vừa đến đầu làng, anh cho xe lượn thẳng vào sân đình. Hoà nắm tay chồng cùng hớn hở chạy lại quỳ bên con rồng đá. Thăng vỗ tay vào lưng vợ reo lên thích thú:

- Mình ơi! Nó uốn lượn mềm mại, bay bướm, uyển chuyển hình sin. Đúng là rồng đời Lê rồi.
- Vâng. Đình làng mình có từ đời Lê. Em cũng không ngờ quê nội các con có ngôi đình cổ đến như vậy. Mọi lần về quê đều sấp ngửa, vội vàng em chưa ra sân đình lần nào.
- Anh nghĩ, rất có thể nó sẽ góp thêm tư liệu cho công trình nghiên cứu của em cũng nên.

Hòa nhoài người bò lên thân con rồng đá. Chị áp sát cặp kính cận dày cộp vào từng nét chạm sâu, từng đường uốn lượn của các hoạ tiết trên mặt, lưng và bụng rồng. Hồi lâu chị ngẩng lên nhìn Thăng, say sưa giải thích cho anh ý nghĩa từng hoạ tiết. Thăng nghe vợ như uống từng lời. Anh bồi hôi xúc động, thầm cảm phục Hoà. Cuộc sống quanh anh có bao cái đẹp, cái quý giá mà anh hờ hững hoặc chưa chịu khám phá, cảm nhận được nó. Anh nghĩ vậy và cảm thấy yêu đời hơn, gắn bó với làng quê nghèo khó, với những con người quanh năm lam lũ mà rất hồn nhiên, không màng danh lợi, không bon chen đấu đá, tranh cướp quyền lực. Chợt anh nhìn thấy bóng Tươi chống nạng phăm phăm đi tới, sau lưng Tươi là Thảo và mấy đứa trẻ nhỏ trong làng.

- Thăng về đấy phỏng? – Tươi hỏi như quát.
- Sao biết vợ chồng mình về mà ra đón?
- Đón điếc cóc khô gì. Mình nghe trẻ con trong làng kháo nhau có hai ông bà lịch sự ngoài Hà Nội, mỗi người đeo hai đít chai dày cộp, đang ở ngoài sân đình xem con rồng đá nên đoán ngay ra vợ chồng ông thôi mà. Ngọn gió lành nào đưa ông bà về quê đấy, hử?
- Nhớ thì về chứ gió lành, gió dữ gì…

Thăng đẩy nhẹ vợ về phía Thảo. Hai người đàn bà thẽ thọt chào nhau, làm thân rất nhanh và rủ rỉ tâm sự. Tươi vẫn nói oang oang như sân đình chỉ có anh và Thăng:

- Ông là chúa tệ, làm quan rồi, giàu sang rồi chẳng thèm ngó ngàng hỏi đến bạn bè.
- Bận tối mũi tối mắt, ông và các bạn bè ở quê tha cho mình.
- Bận... Bận... Bận cái nỗi gì? Có mà bận đỡ đòn giữ ghế. Cái tạng ông thật thà như đếm, chống đỡ làm sao cho được bọn tiểu nhân mẹo vặt đầy người. Bị chúng nó cho lộn tùng phèo rồi phỏng?
- Thế ra ông biết hết mọi chuyện? –Thăng ngỡ ngàng hỏi lại.
- Đừng khinh thằng bạn lính què, chăn vịt ở xó quê nhá. Chuyện to chuỵên nhỏ của bạn bè ngoài Hà Nội cũng không lọt qua lỗ tai, con mắt của mình. Mà thôi, vứt quách ba cái chuyện ấy cho nó nhẹ lòng. Ông và Hoà từ nãy ngắm nghía con rồng đá đố biết có gì hay không?... Đám trí thức thị thành các vị không rành rõ chuyện này bằng cánh nhà quê ấm ớ như mình đâu. Này nhé! Các con rồng thiêng ở đâu mình không biết, chỉ thấy nó dù làm bằng gỗ, bằng đồng, bằng đá, hay bằng vàng đi nữa mà đặt xa cách với con người là vứt! Nếu nó không mốc meo, mối mọt thì cũng nhện chăng, bụi bám…Cứ như con rồng đá đình làng ta lại hoá hay. Bao nhiêu thế hệ mẫu giáo từ lớp mụ Thảo nhà mình đến bây giờ là lớp con cháu đã nối tiếp nhau, áo quần nhếch nhác, có khi tồng ngồng leo lên tụt xuống, dí chim,chịn bướm nên cái lưng rồng mời nhẵn bóng, sáng loáng. Chỉ cần nhìn xuống chân, xuống bụng con rồng đá khắc thấy chỗ nào các thằng cu, con hĩm ít chạm tới là rêu mốc đã bám ngay rồi... Ha ha!...

Tươi nói say sưa, giọng choang choang như chuông không cần e dè, kiêng nể. Có lúc cao hứng, anh gõ chiếc nạng cạch cạch xuống sân đình. Hoà liếc nhìn sang chồng. Chị mừng vì chưa thấy bao giờ anh hồn nhiên, vui vẻ như vậy. Cái chất nhà quê thật thà, nói nhanh, nói to của Tươi như lây sang người Thăng. Họ vung tay, múa chân, nói cười ngả ngớn, tự do. Cái tự do không dễ tìm được ở các hội nghị trang nghiêm giả tạo, nói lời vay mượn mà Thăng và chị vẫn từng miễn cưỡng tham dự đã nhiều năm. Nó giá trị chẳng bằng nửa lời của Tươi vừa nói về rồng chăng?... Chị xúc động ngả đầu vào vai Thảo ngắm nhìn hai người đàn ông thao thao bất tận những câu chuyện mà họ dành cất trong kho kỷ niệm từ thời tám hoánh. Nắng trưa đã lên tròn bóng. Mặt nước ao đình lăn tăn gợn sóng theo nhịp khoả chân của các cô thôn nữ đi làm đồng về. Lòng Hòa thầm reo: Ôi quê hương, con cám ơn Người! Nếu biết thế này, con đã đưa Thăng về với Người từ hôm đầu xảy ra câu chuyện bầu bán ở Viện của anh…

V.N.T.

RỒNG ĐÁ (Tập truyện) Tác giả: Lê Mai, Vũ Ngọc Tiến

3. Gà ô tử mỵ


Đã gần chín giờ sáng. Những tia nắng ban mai qua khung cửa kính nhích dần, bò dần tới nửa gian phòng khách của ngôi biệt thự sang trọng. Cường uể oải vươn vai ngồi dậy. Anh lẳng lặng vào trong phòng tắm, ngâm mình trong bồn nước. Tiếng ro ro của các tia nước từ hai bên thành bồn tắm xói vào lườn gây một cảm giác lâng lâng, đê mê. Thời đại văn minh thật thú vị. Đến bồn tắm cũng làm được viêc massa thay bàn tay của các cô gái. Các huyệt đạo được khai thông, âm dương giao hòa, khiến anh chìm dần vào lạc thú như được ai ve vuốt chiều chuộng. Một gã trí thức nghèo hèn, nhét đầy bụng chữ mà vợ bỏ, con khinh, nếu không có cơ hội làm quản gia bất đắc dĩ cho bạn, sức mấy anh được hưởng cái lạc thú nhân tạo này. Hai tuần qua đi, có lẽ Cường chỉ thích nghi với bồn tắm này và công việc chăm sóc gà ô cho bạn. Ngoài ra, cả biệt thự sang trọng cùng các tiện nghi khác đều xa lạ với anh. Đến cả việc ngủ trong phòng kín có máy điều hoà giữa tháng năm oi bức Cường cũng không thể quen được. Anh đành cắp gối ra ngủ ở đi văng phòng khách thoáng đãng khí trời. Gió từ hồ Tây thổi qua hoa viên biệt thự vào phòng khách vẫn thú hơn gió lạnh từ máy điều hoà.

Đời Cường quá quen với cảnh chật chội 12 m2 chuồng chim ở khu nhà lắp ghép Thành Công đang xuống cấp. Đùng một cái ông bạn thân mò đến và nói:

- Vợ chồng tao đi du lịch Singapore, Đài Bắc một tháng. Lũ trẻ đứa đi học nước ngoài, đứa đi công tác Sài Gòn. Cô bé giúp việc thì xin về quê, vả lại cũng không đủ tin giao nhà cho nó được. Kẹt quá! Mày đến biệt thự của tao nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và coi nhà giúp tao. Biết mày lười nấu ăn nên bà xã tao đã chất cả núi đồ nguội trong tủ lạnh, dùng cả tháng... Giúp tao nhé!
- Cũng được. Tao đang viết dở báo cáo tổng kết đề tài lai tạo giống cây trồng rừng cho chương trình 327 ở sáu tỉnh miền núi phía Bắc nên cũng cần yên tĩnh.

Tuyệt quá! Nhất cử lưỡng tiện... À, tao quên chưa nói. Tao có con gà ô tướng tử mỵ, tao yêu nó như con đẻ. Ở nhà mày chịu khó thay tao chăm sóc nó. Cách thức chăm sóc đã có ông cụ Huy bên hàng xóm cũng thuộc dân mê gà chọi sẽ hướng dẫn mày.

- Có phức tạp lắm không?
- Đơn giản thôi. Mày xem cụ Huy làm một hai lần là quen ngay.
- Thế thì tốt rồi.
- Tao dặn thêm, nếu ở nhà có thằng Mão Sếch hay Mão đại ca, ở biệt thự gần mép hồ gạ gẫm chọi gà mày đừng có nhận lời. Nó là thứ vi trùng uốn ván, dây vào là gà của tao chết cong người có phen đấy, mày ạ!
- Mày đi vắng nó biết tao là ai mà gạ với gẫm.
- Chưa biết chừng, thằng này máu ăn thua, cay cú vì mấy lần trước gà nó đều thua gà ô của tao. Nghe nói Mão Sếch vừa cho đệ tử đi tầm được gà chiến của cụ giáo Dậu bên Bắc Ninh. Cụ ấy không chịu bán, nó vừa nài nỉ vừa ép mua với giá năm triệu đồng.
- Yên tâm, tao sẽ trông nom nhà cửa, gà chọi chu đáo. Chúc hai vợ chồng mày một chuyến đi vui vẻ!

Từ hôm ấy Cường nghiễm nhiên thành chủ nhân ngôi biệt thự vào loại to nhất nhì làng du lịch Quảng Bá. Cuộc sống độc thân giúp anh dễ bề di chuyển. Bạn bè ai có việc cần nhờ trông nhà, anh đi liền, chẳng vấn vương suy tính gì. Tuy vậy lần này thảnh thơi, vương giả nhất trong hơn 40 năm làm cái thằng người của anh. Ở biệt thự này từ con mèo, con chó, con gà cũng sướng gấp bội lần anh lúc ỏ nhà. Đời là vậy!…

* * *

Có tiếng chuông reo gọi cửa. Cường biết đó là cụ Huy sang chơi. Anh lật đật ra sân mở khoá cổng sắt.

- Cháu chào cụ, rước cụ vào trong nhà ạ!
- Không dám, bác mới thức dậy phải không? Đêm qua tôi để ý thấy phòng khách bên này sáng điện gần hết đêm.
-Dạ thưa cụ đêm qua cháu mải viết báo cáo đến lúc sực nhớ ra xem đồng hồ đã 2 giờ sáng.
- Trí thức các bác làm việc vất vả chẳng ai biết cho.
- Vâng, thưa cụ làm viêc trí thức cốt ở cái tâm, cái chí hướng của mình thôi.
- Nhưng đời này cũng bạc bẽo quá, bác nhỉ.
- Dạ, cám ơn cụ! Cũng tại cháu bất tài thôi, cụ ạ!
- Đừng tự hạ thấp mình như vậy, nhìn bác làm việc là tôi biết cả, mà thôi, xưa nay anh hùng bất kiến minh quân là thế…
- Có lẽ cũng đến giờ rồi, con vẫn chưa xoa bóp và cho gà ăn. May có cụ sang, ta ra thăm nó một lát rồi rước cụ lên nhà xơi nước- Cường lảng sang chuyện khác.
- Tôi cũng định bàn với bác thế đấy. Giống vật nuôi nó mà chầm vập, âu yếm, chăm sóc, nó sẽ giả nghĩa mình sâu lắm, không biết đâu mà lường hết được.
- Từ bữa về đây lại được gặp cụ, cháu cũng đâm ra mê gà chọi.

Cụ Huy theo Cường hăm hở đến bên lồng gà chọi. Chú gà ô thấy hai ngưòi hăm hở đập cánh gáy . Tiếng gáy nghe đanh và gọn như một tiếng quát.

Cụ Huy chỉ con gà nói với Cường:

- Con gà này có tiếng gáy rất quý tướng. “Ngôn vi tâm thanh hình vi tâm tưởng”. Lời là trí là dũng của lòng, vẻ là hình của lòng. Các cụ ta còn có câu phương ngôn “Miệng người sang có gang có thép”. Câu này ngoài nghĩa ở mặt trái cuộc đời quyền và tiền dễ đổi trắng thay đen, còn có nghĩa là người có quyền uy, trí tuệ giọng nói trầm hùng sang sảng, đanh thép, ngắt mạch gọn hơi. Tiếng gáy như con gà ô nhà mình là thể hiện quyền uy, sức mạnh và tư chất của nó. Gà ô nhà mình ít gáy, nhưng tôi đảm bảo loại gà hèn tướng chỉ nghe nó gáy cũng đủ ngác ngơ, sã cánh, cụp đuôi lủi mất.

- Tiếng gáy như thế nào gọi là gà tầm thường ạ? - Cường thích thú hỏi.
- Nếu nghe tiếng gáy thấy đơn điệu, đều đều như mọi giống gà khác thì tiếng gáy ấy biểu hiện một tài năng tư chất tầm thường. Gà gáy theo mọi nhà, mà trong tiếng gáy không nghe thấy sự thách thức hiên ngang thì thường oai ở nhà, hèn khi ra sân xới lạ. Tiếng gáy khàn đục là gà tiểu nhân.
- Cháu đọc bao nhiêu sách, bây giờ học cụ nuôi gà lại thấy sáng ra nhiều điều.

Cụ Huy nghe Cường nói chỉ vuốt râu tủm tỉm cười. Cường lấy rượu thuốc ra xoa bóp cho gà. Cụ Huy vừa giúp Cường chăm sóc chú gà ô, nói lời âu yếm. Hai người say sưa ngồi ngắm chú gà ô thong thả mổ từng hạt ngô. Ăn no chú xoải cánh nằm ngủ phơi nắng. Cụ Huy quay sang Cường nói:

- Bác nhìn kỹ sẽ thấy gà ô nhà mình có nhiều tướng ẩn. Khi nó ngủ, đầu và cổ thả xuống đất thõng mềm như con rắn. Đó là tướng gà tử mỵ, ngủ mà như chết. Nếu nhìn kỹ, bác sẽ thấy, chỉ lúc nó phơi nắng hay đập cánh, ta mới nhìn rõ mỗi cánh chỉ có một chiếc lông trắng muốt. Đó là tướng ẩn thứ hai, gọi là gà ô điểm bạch. Gà tướng ẩn nhiều khi mới vào trận có vẻ ngu ngơ chịu đòn để thăm dò hoặc khích tướng đối phương. Vào lúc bất ngờ nó bùng lên, xuất những chiêu thức lạ và đối thủ có khi chết ngay tại trận. Điều đáng quý và đó là tướng ẩn thứ ba như bác vừa trông thấy. Gà ô nhà mình là giống gà chiến lẫy lừng nhiều chiêu độc thủ vậy mà khi nãy vừa ăn vừa cúc cúc gọi mấy chú gà con đến ăn cùng. Dáng điệu nó lúc ấy thật hiền từ, âu yếm thương quý đám gà con như cha thương con. Có nhiều con gà chọi khác đang ăn thấy gà con sán đến liền giương mắt mổ một nhát toét cả đầu. Bác đã gặp ai trên đời độc ác, thiếu tình yêu với trẻ con mà hậu vận được tốt đẹp không?

Cường nghe cụ Huy giảng giải cao hứng vỗ tay cười ngất. Anh lễ phép mời cụ lên nhà uống nước và né người sang một bên mời cụ đi trước. Cụ Huy nhìn anh gật gù ra chiều hài lòng, mến phục cử chỉ nho nhã ấy. Vào đến phòng khách Cường vừa pha trà vừa vui vẻ nói:

- Đêm qua con thức khuya thấy mệt nên sáng nay xả láng nghỉ ngơi hầu chuyện cụ. Xin cụ dạy bảo con thêm về cách xem tướng gà, rồi hai ông con mình uống rượu. Mọi thức đều có sẵn ở trong tủ lạnh, không phiền phức, diệu vợi gì cụ ạ!
- Xem tướng gà không đơn giản đâu.
- Dạ, thưa cụ con biết.
- Xem tướng gà cũng phải hiểu kinh dịch, thông suốt huyền cơ và cái lẽ biến hoá của trời đất bởi gà cũng như người vậy. Người cốt ở tướng mặt, tướng tay. Gà cốt ở đôi mắt và đôi chân.
- Con nhìn gà thấy con nào cũng giống con nào, biết xem thế nào ạ?
- Mắt gà rất khó xét đoán vì là cửa sổ của tâm hồn. Thường mắt to, mắt trơ là gà vô cảm, bất tài. Mắt mọng nước như trái nhãn bóc vỏ là gà uỷ mỵ, thiếu ý chí sắt đá khi xung trận. Mắt lầm cát là gan lì, không chịu khuất phục. Nếu đưa tay ta vào gần thấy mắt gà thu nhỏ, con ngươi bé tí ti như một chấm sáng ấy là gà thông minh, nhiều mưu lược,có đòn tập hậu hay tạt ngang bất ngờ. Dẫu sao nhìn vào mắt gà còn tuỳ thuộc vào sự giao cảm với người mà suy đoán những yếu tố hư tĩnh vô vi trong con ngươi, vành mắt của gà. Người có tâm càng sáng, đức càng cao, càng dễ giao cảm với loài vật.
- Mới chỉ có đôi mắt gà cụ đã dẫn giải ngần ấy điều thì xem chân gà chắc còn nhiều điều thú vị - Cường xuýt xoa nói.
- Đúng thế. Bác làm ơn cho lão xin một hớp rượu, rồi ta bàn tiếp.

Cường đứng dậy lấy rượu ngâm rắn ngũ xà rót vào chai pha với rượu thuốc ngâm theo bài “Dưỡng huyết khu phong” mà cụ Huy vẫn thích. Anh mở tủ lạnh lấy ra bát bầu dục đã thái sẵn, rót ít nước sôi, lấy thêm ít tiêu, mắm, chanh, ớt. Hai ông cháu vui vẻ uống rượu, nhìn ra hoa viên biệt thự. Nắng đã lên cao rắc những bụi sáng vàng trên từng tán lá. Xa xa phía hồ Tây mặt nước đong đưa, chao nghiêng cánh võng theo ngọn gió sớm mùa hè. Cường cảm thấy cuộc sống đáng yêu, thú vị và nhiều điều anh còn chưa biết, chưa khám phá hết. Cụ Huy bắt đầu giảng giải anh nghe về tướng chân gà. Hơi men làm cụ thêm say sưa, hào hứng.

- Cái tinh, cái tướng gà hiện rõ ở đôi chân. Đùi là thượng túc. Cẳng là hạ túc. Thượng hạ đều nhau là tướng tầm thường. Hạ đoản, gà nhanh nhẹn, biến hoá vô thường. Gối chùng, gà có sức bật cao, mạnh. Gối thẳng, gà thường chậm, ít biến hoá. Kheo treo là tướng lạ, tướng quý khiến đôi chân gà khi vào trận thực hư biến hoá không biết đâu mà lường. Chính danh trên mặt vẩy, vô vi biến hoá trong phát hiện suy đoán là nguyên tắc cơ bản của thuật xem tướng chân gà. Ống chân của gà có hai mặt âm- dương . Mặt trước (mặt dương) vuông vức, có hai hàng vẩy to, hai bên mép là thành sắc lạnh. Mặt sau (mặt âm) tròn, mềm. lấm tấm những vẩy nhỏ như hạt kê. Mặt âm phải sáng bóng, nổi hạt và ấm nóng. Mặt dương phải khô lạnh, phải biểu hiện chính danh, nghĩa là phải có dấu hiệu của sự tôn quý thanh cao, hàm đủ: Nhân – Trí – Hùng - Lược.

Ở mặt dương của ống chân gà phía trên áp gối là thiên, phía dưới áp bàn là địa. Hàng trên cùng vốn có hai vẩy, nếu chỉ có một vẩy che kín là con gà của giời. Ở hàng một là đệ nhất án thiên, hàng hai là đệ nhị án thiên, hàng ba là đệ tam án thiên. Sang đến hàng thứ tư lại trở về gà tầm thường. Đạo dịch nói rồi, thịnh mãi sẽ suy vậy.Gà con của giời ra đòn vũ bão hiên ngang như sấm gầm, chớp giật. Điểm nổi bật là gà không bao giờ chịu khuất phục, cho dù thân thể bầm nát. Nhưng đã là gà con của giời thường có thiên sứ mách bảo đòn hiểm để thoát nạn, giành chiến thắng bất ngờ. Gà án thiên cũng giống con gà ô nhà mình lúc nãy, không cắn gà con lại còn cho chúng ăn và không đánh kẻ thù khi chúng chưa ra đòn đánh trước... Áp bàn mà chỉ có một vẩy che kín gọi là tướng quỷ hay tướng phủ địa. Tướng này cho thấy gà có nhiều đòn hiểm, đòn tập hậu, luồn cánh hay tạt chéo. Đòn gà biến hoá vần vũ như thiên la địa võng, dễ dàng hạ gục kẻ thù hung hăng, hở miếng, lộ sườn.

Nghe đến đây Cường nắm tay cụ Huy sung sướng reo lên:

- Cụ đã dạy con một bài học vô giá về triết lý nhân sinh chứ không đơn giản là việc xem tướng gà nữa. Con phải cảm ơn anh bạn đã cho con cơ hội gần cụ những ngày này. Hai ông cháu mình uống tiếp dăm chén rượu mừng cuộc tao ngộ. Thức ăn nguội hết cả rồi, cụ ạ!

Họ vừa uống rượu vừa quay sang bàn chuyện thời sự, chuyện nhân tình thế thái. Có bàn rộng đến việc đời Cường mới thấm thía câu ngạn ngữ “bảy mươi học bảy mốt”. Cụ Huy đã kể anh nghe nhiều chuyện xảy ra trong đời. Thời trai trẻ cụ vốn là người sôi nổi, nhiệt thành và đa tài cũng lắm nỗi đa đoan. Bạn bè cùng lứa họat động bí mật trước năm Át Dậu, nhiều người văn hóa lem nhem nay lên tướng hay làm Bộ trưởng, còn cụ có bằng tú tài Tây hẳn hoi mà trước khi về hưu chỉ làng nhàng lương chuyên viên hạng bét. Có lần cụ bảo Cường rằng, nỗi bất hạnh lớn nhất đối với người quân tử là bất kiến minh quân. Nếu tìm được minh quân như Ngô Thì Nhậm tìm được Nguyễn Huệ thì dẫu có phải chết ấy là do số trời và cái chết ấy hàm chứa bao điều hạnh phúc. Một mình anh chỉ là cá thể đơn lẻ trong vũ trụ chẳng thể làm nên công tích gì vĩ đại nếu không biết dựa vào số đông, mà trong số đông ấy phải tìm cho ra minh chủ, minh quân…

Chợt từ ngoài sân vang lên tiếng gáy báo trưa của chú gà ô. Cụ Huy nghe tiếng gáy như bừng tỉnh.

- Mải nói dông dài chuyện đời quên mất đang dở bàn chuyện gà. Bác tha lỗi cho lão già lẩm cẩm.
- Dạ thưa cụ ngày còn dài. Con lại xin được nghe tiếp chuyện gà của cụ.
- Tôi đã bàn qua ống chân, bây giờ luận tiếp đến bàn chân: Bàn chân gà có ngón giữa to và dài gọi là ngón chúa, hai bên là ngón biên, phía sau ngón hậu, vị chi tất cả có bốn ngón. Xét về hình dáng, hai ngón bên phải tạo lập một góc vuông hay gần vuông. Đạo dịch rất trọng sự vuông tròn, có biến qua biến lại cũng là để đạt tới sự vuông tròn, cân đối, hài hoà. Xét về dấu tướng lạ, người ta tập trung xem vẩy ở ngón chúa. Có tướng gà con của ấu chúa biểu hiện ở chỗ vẩy thứ nhất và vẩy thứ hai tạo thành chữ Nhân . Đó còn gọi tướng gà nhân tự đầu hổ. Tướng này như Gia Cát Lượng phò ấu chúa hay Triệu Tử Long ở Tương Dương - Trường Bản. Khi lâm trận, gà tiến thoái vào ra như đi giữa trận đồ bát quái. Nếu gặp đối thủ cao cường, giữa phút nguy nan đến mức mắt mù, cổ gãy, gà bỗng nhiên trỗi dậy đá một đòn đối phương chết ngay. Gà nhân tự đầu hổ không bao giờ phản chủ hay làm nhục chủ. Nếu chữ Nhân tìm thấy ở những hàng vẩy khác, gà cũng vào lọai hay, nhưng chưa thể có tuyệt chiêu. Còn nhiều dấu hiệu của tướng linh kê khác như gà vẩy vương tự, vẩy xuyên đao, vẩy huyền kê, vẩy liên giáp thành nội, liên giáp thành ngoại... Tôi nói nhiều quá sợ bác không nhớ nổi. Đợi khi nào gặp con gà cụ thể tôi sẽ phân tích để bác hay. Bây giờ sắp quá ngọ sang mùi. Thời giờ đi mau thật. Tôi quấy quả, dông dài mãi sợ bác mất thời gian. Vậy tôi xin kiếu hẹn bữa khác...

* * *

Cường chưa kịp tiễn cụ Huy ra về, chợt có tiếng chuông gọi cửa đổ liên hồi, gấp gáp. Anh xin lỗi, nhờ cụ nán ngồi lại rồi chạy ra mở cổng. Mão Sếch ôm theo con gà tía cùng dăm bảy đệ tử bước vào. Chẳng đợi Cường cho phép, họ nghênh ngang kéo nhau xông thẳng lên phòng khách. Một gã khoanh tay dựa vào tủ buông một câu xấc xược:

- Ông chủ đâu?

Cường cau mày khó chịu, không thèm trả lời. Mão Sếch cảm thấy hơi tẽn vì thái độ của bọn đàn em nên giàn hoà.

- Ông anh tha lỗi. Bọn đệ tử của tôi quen thói cộc cằn, lấc cấc, nhưng rất tốt, rất trung thành. Ông anh khỏi lo. Tôi là hàng xóm, cụ Huy đây cũng biết.
- Vâng, tôi cũng có nghe qua và biết anh có cái biêt thự ở mép hồ. Các anh cần gì? - Cường hỏi.
- Thế ông anh là thế nào với chủ nhà?
- Tôi là bạn thân đến trông nhà, trông gà.
- Vậy cứ tạm xem anh như là chủ con ô tử mỵ. Nói cho nó nhanh! Tôi mấy bận ôm gà sang đây đá đều thua đậm. Hôm nay có con gà tía muốn cho thử sức với con ô bên này. Được chứ?...

Nhận thấy Cường có vẻ lúng túng, cụ Huy đỡ lời:

- Gà tía hở. Bác cho tôi coi một chút, được không bác Mão?
- Mời cụ cứ tự nhiên - Một gã đệ tử vừa trịnh trọng ôm gà tía đến bên cụ Huy vừa nói– Gà tía này hết sảy. Đại ca của cháu vất vả lên tận Bắc Ninh gặp cụ giáo Dậu, năn nỉ mua hết 5 triệu đấy.

Cụ Huy tủm tỉm cười, đưa tay đỡ con gà lên ngắm nghía. Nghe tiếng cục cục của con gà ô ngoài sân, tía ta hùng hổ nhảy xuống sàn, đập cánh gáy vang đầy vẻ thách thức. Cụ Huy chăm chú nghe tiếng gáy, sau đó lại gần tía một tay vuốt ve, tay kia đỡ lấy ngực nó. Cụ ngồi quan sát, trầm ngâm suy nghí chừng 15 phút rồi quay sang Mão Sếch nói:

- Con gà này đúng là linh kê. Đã lâu lắm ngoài con ô nhà này, hôm nay tôi mới gặp được một con gà quý tướng. Các bác xem: con tía này thuộc loại tầm đại, lực lưỡng hơn con ô tầm trung. Nó nặng hơn con ô ít nhất bốn lạng, cao hơn sáu phân. Đầu nó nhỏ, theo xuôi với cần cổ. Mỏ ngắn và chắc, hàm lại rộng, mổ vào đối phương cứ là dứt từng miếng thịt. Gò má cao, da mỏng, đỏ tươi. Mi mỏng, mắt sâu, con ngươi nhỏ, quầng mắt lầm cát. Ức nhỏ, mình dài, phao câu lớn. Lông nó mượt và chặt lông, nếu ngã xuống nước chỉ cần lắc mình vài cái là khô liền. Đôi chân con tía này mới thực tuyệt. Đùi dài hơn cẳng, kheo treo, bắp cơ nổi rắn như tảng đá. Ống chân đã có vẩy phủ địa, lại thêm vẩy liên giáp thành nội ở ngang tầm cựa. Bàn chân vuông vức, ngón chúa dài và bóng láng. Ai có tiền đừng nói 5 triệu mà 10 triệu, 20 triệu cũng nên mua. Quý anh Mão đã dư tiền lại rất sành chơi gà.

Cụ Huy liếc mắt thấy Mão Sếch khoái trá, châm lửa hút thuốc, mặt nghênh nghênh, hai chân nhún nhảy. Liếc sang phía Cường, cụ thấy anh hơi thất sắc, trán lấm tấm mồ hôi. Cụ càng tán dương gà tía, đám đệ tử của Mão Sếch mặt mày như nở ra, hai chân muốn nhảy cẫng. Một gã xấn lại gần Cường giả lả nói:

- Chơi chứ, ông anh? Hôm nay mới thực sự là quần hùng hội yến. Ông anh mà không dám đưa gà ô ra thử sức thì xoàng quá, uổng công tụi em xoa bóp gà tía cho đại ca suốt một tuần.
- Giang hồ có luật. Chối từ thế nào được. Ăn mãi thì đến lượt phải nôn - Một gã khác đỏ mặt tiếp lời.
- Nhưng có phải gà của tôi đâu - Cường nhỏ nhẹ đáp.
- Không được. Ông anh mới về xóm này không biết đại ca ba, bốn lần ôm hận trên sân xới biệt thự này. Có trận đại ca tôi đã chết gà lại mất toi gần trăm triệu cá độ. Oan có đầu, nợ có chủ...

Đôi bên lời qua tiếng lại mỗi lúc thêm ồn ã. Cường càng từ chối, khất lần tụi đàn em Mão Sếch càng hung hăng ép buộc. Cụ Huy chỉ ngồi im lặng, tủm tỉm cười mát và quan sát chú gà tía oai phong, lẫm liệt. Hồi lâu cụ nói bâng quơ:

- Nghĩ cũng lạ. Gà quý tướng thế này mà cụ giáo Dậu bên Bắc Ninh lại bán cho các anh?
- Không đơn giản đâu cụ ơi! Đại ca chúng cháu phải năn nỉ rát lưỡi, khô miệng nửa ngày giời mà cụ giáo vẫn làm thinh. Mãi sau cụ giáo thấy chúng cháu lì quá mới phát giá 5 triệu ngỡ là nói lỡm để xua khách về, ai ngờ đại ca chúng cháu chơi đẹp, xoè tiền ôm gà chạy ra cửa không nói nửa lời. Cụ giáo chắc là tiếc đứt ruột.
- Thế thì tôi hiểu ý cụ giáo rồi - Cụ Huy quay sang đưa mắt ra hiệu cho Cường rồi huơ tay tuyên bố - Đánh thì đánh, sợ gì mà cứ giằng co mãi.
- Hoan hô cụ già. Thế mới là hảo hán làng chơi.
- Chiều nay bốn giờ khai cuộc.
- Cụ nói là đảm bảo quân tử nhất ngôn đấy. Đúng bốn giờ tụi cháu ôm gà sang đá.
- Đã bảo bốn giờ, không sai một giây.
- Ý cụ định thế nào, luật cá độ ấy?
- Tuỳ các quý anh.
- Một ăn hai mươi, xong béng – Mão Sếch tuyên bố.
- Tôi chỉ có hai trăm ngàn lương hưu vừa lĩnh xin đặt hết cho quý anh.
- OK! Gà tía thua cháu nộp cụ đủ bốn triệu. Ngoài ra, tiền cá của làng, kính biếu cụ mười phần trăm, không thiếu một cắc.

Cụ Huy quyết định đột ngột, cuộc đàm phán diễn ra quá nhanh làm Cường ù tai choáng váng, lo sợ. Anh ớ người không nói thành lời, chỉ biết nở nụ cưòi hình thoi, đôi mắt đờ ra ngây dại. Khi bọn Mão Sếch ôm gà lục tục kéo nhau ra ngoài quán bia đầu ngõ, Cường mới hoàn hồn. Anh lắp bắp hỏi cụ Huy:

- Cụ làm sao thế?
- Tôi chẳng làm sao cả.
- Cụ ơi! Con lo lắm! Bạn con lúc đi dặn đi dặn lại đừng có dây với bọn Mão Sếch. Lên đến phòng chờ máy bay anh ấy còn chưa yên tâm, chạy xuống nắm tay con nhắc phải chăm sóc, bảo vệ gà ô.
- Bác cứ yên tâm. Tôi biết bụng bạn của bác và bác ấy cũng hiểu bụng tôi.
- Yên tâm làm sao được hở cụ? Nếu gà ô của bạn con có mệnh hệ gì, con biết ăn nói thế nào?
- Bác chưa hiểu nên lo là phải. Thư thả ngồi tĩnh tâm uống nước tôi nói bác hay.

Cụ Huy lại tủm tỉm cười nhìn anh hồi lâu. Cụ vuốt chòm râu, đứng dậy tìm chiếc điếu cày ở góc phòng mang ra đầu hiên vừa hút vừa mơ màng ngắm cảnh Hồ Tây lăn tăn sóng nước phía xa xa. Cường nhìn theo cụ tâm thần hoảng hốt, đứng ngồi không yên, tay chân không biết để vào đâu. Anh toan chạy ra van vỉ cụ Huy đổi ý để tự mình đi tìm Mão Sếch xin lỗi. Nhưng có cái gì vừa e ngại vừa như tò mò đã giữ chân Cường lại. Hình như cụ Huy cảm thấy thời gian đã đủ cho Cường bớt lo sợ, ngỡ ngàng, hồi tâm một phần. Cụ vẫy Cường ra ngoài hiên cùng đi đến chỗ con gà ô.

- Hồi nãy nói chuyện với bác về tướng gà tôi còn quên chưa nói hết. Tướng gà rất khó xét đoán nhưng luyện nhiều vẫn có thể phát hiện, tìm được linh kê giữa muôn ngàn con gà tầm thường khác. Trong giới chơi gà chọi còn nghiệm thấy giữa chủ và gà có duyên may, có luật nhân quả, luật tương xung tương hợp. Quý vật tầm quý nhân chứ quý nhân không tầm quý vật. Có những con vật ở với chủ cũ hiển hách chiến công nhưng khi về tay người khác thành gà đạp mái. Luật nhân quả cho thấy chủ nhân từ, luôn chăm sóc vỗ về, thương gà như thương con, yêu gà như yêu mình thì linh kê ra trận dù mù mắt, gãy cánh vẫn có thể bất ngờ chiến thắng kẻ địch mạnh hơn rất nhiều lần. Chủ nào tớ ấy, nếu ông chủ hèn hạ, thất đức không mấy khi được gà hay. Nếu ỷ vào tiền, vào thế mà ép buộc, giành giật linh kê từ tay người khác thì cái thần của linh kê sẽ biến mất.
- Cụ nói xa xôi quá con không hiểu. Con lo lắm cụ ạ! Gà ô này là bạn con giao lại bằng tất cả tình cảm từ hồi chúng con còn mặc quần thủng đít.
- Sao bỗng dưng ngưòi có học thức, thông minh lịch lãm như bác lại chậm hiểu thế?
- Quả có vậy. Lúc nãy cụ hết lời ca ngợi con gà tía. Chẳng nhẽ đó là giả dối?
- Không. Tôi khen thật. Gà tía thật sự là linh kê hiếm gặp.
- Thế thì lại càng khó hiểu.
- Nếu gà tía đang trong tay cụ giáo Dậu thì các vàng tôi cũng không dám nhận đấu. Than ôi! Anh hùng bất kiến minh quân. Tôi đã nghe trong tiếng gáy hùng dũng oai phong của gà tía ở đoạn ngân cuối cùng ẩn chứa một nỗi u hoài. Nhìn sâu vào mắt nó tôi thấy một quầng tối uất ức, giận hờn. Bác chưa sống lâu, gắn bó với gà chọi, nên bác chưa thấy được cái linh cảm ấy. Bạn bác ở nhà có thể có sự đồng cảm như tôi. Sự buồn nản của gà tía đã dồn xuống đôi chân có vẩy quý tướng rồi, bác chưa biết đấy thôi. Hai mặt âm dương của chân gà đã mất cân bằng, âm đang thịnh lên, dương bắt đầu suy. Phải biết thăm thân nhiệt biến đổi ở hai mặt ống chân và nhìn nghiêng quan sát các vệt sáng trên từng vẩy to nhỏ mới cảm nhận hết được điều này. Một lũ lưu manh giòi bọ như Mão Sếch làm sao có thể nuôi được linh kê, có nòi giống tôn quý như gà tía của cụ giáo Dậu lừng danh trong làng chơi gà chọi xứ Kinh Bắc. Ô hô!... Tiếc thay hạt gạo trắng ngần, đã vo nước đục lại vần than rơm! Anh hùng bất kiến minh quân như gà tía khác nào Phạm Tăng thờ Hạng Võ, cha con Lý Lăng chết ở ải Hồ Quan bởi Mao Diên Thọ, Tống Nhac Phi chết ở pháp trường bởi tay Tần Cối... Lão tin gà ô nhà mình cũng vì lẽ đó. Vả chăng nom tình thế lúc này bọn đàn em Mão Sếch vừa tranh cãi vừa ép buộc, hùng hổ như muốn nhai sống gà ô, nên từ chối mãi ắt cũng không xong. Hung đồ như bọn Mão Sếch sẵn sàng trói gô tôi với bác lại, đem gà ra đá. Còn việc cá độ tôi đâu có thiết, chẳng qua vì tôi muốn cho chúng nó biết và nhớ đời thế nào là luật nhân quả trong giới chơi gà chọi.
- Đành rằng vậy, con vẫn nửa tin nửa ngờ thế nào ấy.
- Tôi đảm bảo xin chịu hết trách nhiệm với bạn của bác, đừng lo.
- Nhưng cháu thương cho gà ô lắm.
- Đừng sợ. Đời một con gà được chiến đấu với con gà tía của cụ giáo Dậu còn gì vinh hạnh hơn. Tôi đặc biệt tin vào tướng gà ô điểm bạch của con tử mỵ nhà mình. Giống vật xét về màu lông nó kỳ lạ lắm. Luật về tướng ẩn trên mỗi loài vật một khác, nhưng đều rất thiêng. Loài chó, trời phú cho cái mũi để tìm kẻ thù, cái tai để nghe lời chủ. Tướng chó lạ phải là “bạch khuyển hoàng nhĩ”, chứ đâu phải chó trắng tuyền như mấy ông buôn chó vẫn kén mang lên biên giới. Loài mèo trời lại phú cho cái đuôi để lấy đà, lái bước nhảy sao cho vồ trúng con mồi. Cho nên mèo tướng lạ phải là “bạch mưu hoàng vĩ”, chứ không phải mèo tam thể. Loài gà khác con chó, con mèo ở đôi cánh nâng nó lên khỏi mặt đất, vươn tới trời cao. Gà ô điểm bạch là tướng thiêng, tướng lạ mà tôi vẫn chưa hình dung hết sự kỳ diệu của nó...

* * *

Đúng bốn giờ chiều trận tử chiến giữa gà ô, gà tía bắt đầu khai cuộc. Theo luật cá độ, cụ Huy và Mão Sếch mời Cường làm trọng tài, nộp tiền cược cho anh theo tỷ lệ hai trăm ngàn ăn bốn triệu. Tin đồn từ trưa bay đi rất xa, nên các tay chơi gà lão luyện và dân cá độ ở đất Hà Thành đổ xô đến biệt thự đông đúc, huyên náo khác thường. Mọi người bàn luận sôi nổi và nhiều nhóm cá độ mới xuất hiện. Ai cũng chắc gà tía thắng vì nó to lớn, dũng mãnh gấp bội lần gà ô. Hơn nữa, tiếng tăm gà nòi nhà cụ giáo Dậu ở Bắc Ninh từ lâu nổi như sấm cồn. Tỷ lệ cá cược có nhóm lên tới một ăn một trăm.

Vào cuộc, gà tía liên tiếp ra đòn như vũ bão, nhưng gà ô chỉ né tránh, thỉnh thoảng ra đòn thăm dò. Suốt cả hồi một, uy thế tuyệt đối thuộc về gà tía, nhưng cả hai con gà đều ít bị dính đòn nặng, thương tích của gà ô không đáng kể. Tuy vậy, trong lúc giải lao xoa bóp cho gà ô, cụ Huy và Cường luôn miệng xuýt xoa vỗ về nó. Đám đệ tử của Mão Sếch ỷ thế gà tía hơn phân, mải say sưa với cá độ nên chỉ xoa bóp qua loa, không một chút biểu cảm.

Sang hồi hai, đặc biệt ở hồi ba, mặc dù có vài chiêu thức độc đáo khiến gà tía dính đòn toác mào, rách nách nhưng sức gà ô yếu dần. Nó bị gà tía bao vây, dồn ép, ra đòn liên tiếp vào đầu, vào ngực, vào cổ. Khắp người gà ô bầm tím, rách nát. Mào của nó bị cắn đứt một mảng lủng liểng trên đầu, gần rơi xuống đất. Một bên mép bị rách toác, túa máu ra tai và hàm. Cổ và lưng gà ô chi chít các vết thương. Cánh một bên hơi sã xuống... Hết hồi ba, Cường vừa xoa bóp cho gà ô mà nước mắt cứ muốn trào ra. Cụ Huy dồn hết nghị lực ghìm nén nỗi xót xa, thương cảm và luôn miệng động viên an ủi gà ô. Cụ đưa mắt sang phía góc sân đối diện, thấy bọn đàn em Mão Sếch xoa bóp qua loa, ẩu tả cho gà tía, miệng reo cười huyên náo, gọi nhau í ới. Mão Sếch đang lúc cao hứng khệnh khạng lại gần con gà tía đang thở hổn hển. Hắn đưa mũi giầy lên sát hàm con gà, cười hềnh hệch:

- Gà tía cụ giáo Dậu đâu phải chuyện xoàng. Năm triệu con gà này rẻ chán.

Tự nhiên cụ Huy cảm thấy nhói đau trong lòng. Cụ thật lòng thương cho thân phận gà tía và càng thêm khinh bỉ Mão Sếch. Cụ cảm thấy đôi mắt con gà tía đang nhìn vào chủ của nó đầy vẻ oán giận, tủi hờn. Rồi cụ cảm thấy thương cho người bạn già bên Bắc Ninh. Nếu cụ giáo Dậu nhìn thấy cảnh này sẽ tê lòng thắt ruột. Là bạn già với nhau, cụ Huy hiểu cụ giáo Dậu quyết không hề có ý muốn bán gà tía của mình, nhất là cho người như Mão Sếch. Có lẽ chúng nó vừa mua vừa như ăn cướp của chủ cũ. Hỡi ôi gà tía! Anh hùng bất kiến minh quân là thế này đây!...

Mở đầu hồi bốn, gà ô bỗng nhiên đập cánh gáy vang, hăng hái xung trận. Càng về cuối hồi, thế trận lấy lại thế cân bằng vì gà tía tỏ ra chậm chạp không muốn tránh đòn. Dẫu sao với sức lực cường tráng nó vẫn có đôi phần lấn át gà ô. Chỉ còn vài phút thì hết hồi bốn, bỗng gà ô bị dính một đòn búa bổ vào mang tai. Nó lạng người đi, chúi đầu xuống đất quay quay mấy vòng. Gà tía mất cảnh giác thu đôi cánh lại, đứng nhìn. Bất ngờ gà ô luồn đầu qua háng đối thủ, hất tung người gà tía, sau đó liên tiếp ra đòn sấm sét làm đối phương tối tăm mặt mũi. Cú đá cuối cùng của gà ô trúng hàm gà tía, lướt lên mắt trái khiến gà tía lòi một con ngươi, kêu lên thất thanh que... quéc... nghe rất thống thiết. Tất cả sân xới ngây người nhìn gà tía gục xuống, hai cánh xoã ra như con gà trúng đạn, một chân co lại, còn chân kia duỗi ra cào lên mặt đất yếu dần rồi cứng đơ.

Vừa lúc đó một cụ già râu tóc bạc phơ, hớt hơ hớt hải, xô mạnh cánh cửa sắt chạy vào, khóc nấc lên:

- Ôi tía ơi! Tía ơi! Đường xa, xe kẹt, ta đến muộn, đã hại chết con rồi tía ơi là tía ơ ... ơi!...

Trong khi bọn Mão Sếch và đám người cá độ lủi thủi kéo nhau ra về, thì cụ Huy và cụ giáo Dậu cùng quỳ bên xác con tía, nước mắt rơi lã chã. Tiếng cụ giáo nấc lên từng hồi, khiến Cường thấy bủn rủn tay chân. Anh không ngờ tình nghĩa chủ và gà lại sâu nặng như tình cha con. Có tiếng cụ giáo Dậu gạt nước mắt, hỏi cụ Huy nghe hờn giận, trách móc.

- Cụ là người ăn độ cơ mà? Cụ còn khóc thương con tía nhà tôi vì cơn cớ gì?
- Cụ giáo ơi! Tôi cũng bị miễn cưỡng như cụ thôi. Tôi khóc là khóc cho một Phạm Tăng dưới trướng Hạng Võ. Giờ đây, anh hùng như gà tía nhà cụ sao số phận lại để rơi vào tay lũ lưu manh hạ đẳng như Mão Sếch. Hỡi ôi, anh hùng bất kiến minh quân!...
- Tôi hiểu ra rồi. Tủi thân và cay đời lắm. Tía ơi là… tía ơi!...

Cường đứng lặng giữa sân nhìn hai cụ già tóc bạc phơ sụt sùi gạt lệ chôn xác gà tía dưới gốc cây hoàng lan. Bên tai anh âm âm, u u lời than của cụ Huy. Cơn giông từ phía Hồ Tây ùn ùn xô tới. Những đám mây đen vần vũ bay trên biệt thự. Gió thổi tung những mảnh cỏ, rác trên sân xới gà.■

RỒNG ĐÁ (Tập truyện) Tác giả: Lê Mai, Vũ Ngọc Tiến

4. Âm bản chiến tranh


Rừng chiều lạt nắng, hầm hập oi nồng. Cơn mưa rào chợt đến, làm dịu bớt cái nóng khủng khiếp của miền tây đất Quảng. Cái thứ nắng nóng như rang khô đám lính của tiểu đoàn suốt nhiều ngày đêm lầm lũi đưa pháo lên tận ngọn núi Chảo Lớn triển khai trận địa, chờ lệnh phát hỏa, tiêu diệt cứ điểm Cà Tang, mở đường cho đại quân tiến vào giải phóng huyện lỵ Quế Sơn. Đói, khát và sức nặng của những khẩu pháo 105 ly tháo rời đã vắt kiệt sức lực từng người. Trong mưa, từ quan đến lính, tất thảy trần truồng như nhộng, thỏa thuê tắm mát và uống thứ nước ngọt trời cho để quên đi cái bụng lép kẹp đang thèm cơm, thèm sắn. Người ta khi đã cởi truồng ra rồi thì ai cũng hiền khô, hồn nhiên đến kỳ lạ. Vậy nên khi D trưởng An chạy đến bên Luận, dáng người lòng khòng, của nợ kia thì lõng thõng giữa đùi, khác hẳn với D trưởng An oai nghiêm, thét ra lửa thường ngày, Luận không sao nhịn được, cười đến gập người, thắt ruột. Ông vẫn thản nhiên ra lệnh, còn Luận thì cứ ngỡ ông đùa:

- Tiểu đội trinh sát của cậu mau tập hợp, có nhiệm vụ gấp.
- Lệnh gì lúc này hở thủ trưởng?
- Đài quan sát vừa báo có một tốp dân địa phương đi làm rẫy, đang trú mưa ở gốc cây gần trận địa pháo của ta.
- Thế thì sao ạ! - Luận cợt nhả, còn thủ trưởng thì quắc mắt:
- Lại còn sao với giăng gì nữa. Lộ mẹ nó hết cả bây giờ chứ bỡn à. Họ có 10 người: 5 ông già, 2 cô gái và 3 thanh niên. Các cậu khẩn trương bao vây, tiếp cận, một kèm một, khống chế và trói họ lại, canh giữ cho hết đêm nay, đợi ta nổ súng đánh xong cứ điểm Cà Tang thì thả cho họ về. Nhớ ôn tồn giải thích thật khéo, mình là quân giải phóng, không được làm gì vi phạm chính sách dân vận…
- Rõ!...

Luận chợt hiểu ra tính chất nghiêm trọng của sự việc. Anh nhao đi tập hợp đám lính trinh sát đang đùa nghịch như quỷ sứ, toả ra tán dóc với lính pháo thủ ở từng khẩu đội. Có 2 chiến sĩ bị cảm nhẹ, còn lại vừa khéo 10 người đi làm nhiệm vụ. Ai nấy chỉ mặc độc chiến quần xà lỏn, mang theo dây thừng, dao găm và súng ngắn, nom hung dữ chẳng khác gì thám báo Mỹ. Tất cả khép thành vòng cung, tiến dần về phía mục tiêu. Cách chừng vài trăm mét, Luận đưa ống nhòm quan sát, quả có đúng 10 người như lời D trưởng. Họ đều ăn mặc theo lối dân tộc Cơ-don, một tộc người rất thiểu số ở miền tây Quảng Nam. Chẳng hiểu vì sao, đôi tay anh cứ run run rê ống kính nhìn ngắm kỹ 2 cô gái. Một cô cao to, vai bè, tướng đàn ông. Cô kia, anh nuốt nước bọt đánh ực, mắt đờ ra ngây ngất vì vẻ đẹp hoang dại. Dáng người thon, đôi vai để trần, ngực tròn căng, mắt nai ngơ ngác… Chợt cô gái phát hiện ra anh đang cầm ống nhòm, vội thét to:

- Thám báo Mẽo đấy, chạy mau!

Cả tốp người nháo nhác tản ra tứ phía, chạy thục mạng. Luận ra lệnh:

- Đuổi theo. Mỗi người nhằm một đối tượng, đừng chồng chéo nhau, làm thật gọn như kế hoạch đã bàn ở nhà.

Dứt lời, Luận chồm lên lao theo hướng cô gái. Số phận xui khiến 2 cô gái tách riêng, chạy về phía bờ suối. Anh cũng kịp nhận ra người chạy cùng hướng với mình là A phó Phát. Bất giác Luận mỉm cười hiểu ra lý do, chỉ A trưởng và A phó mới có ống nhòm, thảo nào... Anh cố hết sức chạy vượt lên để giành phần chộp lấy cô gái mắt nai. Cuộc rượt đuổi trong cơn mưa rừng quyết liệt và hung bạo như con sói đói hồng hộc chồm theo chú thỏ non ướt nhóet. Nhưng khi vồ được nàng rồi thì Luận xuống sức thở gấp. Có lẽ cả tháng trời anh đói triền miên, mỗi bữa chỉ có muôi cháo loãng và hai mẩu sắn bé như ngón chân cái làm sao vật nổi cô gái sơn cước săn chắc. Sự thèm muốn đụng chạm với da thịt đàn bà làm anh lú lẫn, quên bẵng mình còn có dao găm, súng ngắn khống chế con mồi. Lăn lộn, cào xé nhau hồi lâu thì cô gái đoạt được dao găm, ngồi chồm hỗm lên bụng anh, quắc mắt, dí lưỡi thép vào cổ họng. Thế là tong đời một cách nhục nhã! Anh nghĩ vậy và thở dài chờ chết, nước mắt ứa ra, gọi khẽ hai tiếng “mẹ ơi!...” Hình như cô gái nhận ra giọng Bắc, thoáng ngạc nhiên, nhưng vẫn gằn giọng hỏi:

- “Giải phóng” hả?
- Ừ, giải phóng quân, quê miền Bắc.
- Sao “giải phóng” lại đi cướp hiếp đàn bà?
- Không phải đâu. Giải phóng quân đưa pháo lên núi, sắp bắn vào cứ điểm Cà Tang để giải phóng Quế Sơn.
- Thế thì sao nữa?
- Cán bộ thấy em và mấy người kia đi làm rẫy về, đứng trú mưa sát gần trận địa, sợ bị lộ bí mật quân sự nên lệnh cho bọn anh bao vây, tạm giữ đồng bào hết đêm nay, chờ đánh trận xong sẽ thả về nhà thôi.
- Thật vậy không?
- Thật mà, thám báo Mẽo hay quốc gia làm sao biết nói giọng Bắc, tin anh đi…
- Hèn gì đàn ông mà ốm nhom, vật đàn bà cũng không nổi, sức đâu mà cướp hiếp. Rõ tội nghiệp!
- Tại tụi anh đói quá, với lại đã quen ôm đàn bà vật lộn thế này bao giờ đâu.
- Hí hí… hí…, quân mình đánh lẫn quân ta, em cũng là du kích chứ bộ…

Cô gái quăng con dao găm, cười khúc khích. Tiếng cười làm nàng rung lên, mông của nàng vì thế cứ nhay đi nhay lại trên bụng chàng trai chưa từng biết đến mồ hôi đàn bà chua mặn thế nào trong đời. Thoát cơn hiểm nghèo, giờ Luận lại được đê mê vì sung sướng. Anh nhắm nghiền con mắt, tận hưởng một thứ khoái cảm kỳ diệu. Đôi bờ mông của nàng hình như cứ trôi dần, trôi dần xuống dưới. Bỗng Luận mở to mắt, bàng hoàng. Anh đâu ngờ khi vật lộn, miếng vải gai quấn trên ngực nàng đã bị bung ra, lúc này tuột xuống để lộ đôi bầu vú trắng nõn, cao vồng, núm vú đỏ hồng như một chấm son, phập phồng lên xuống theo nhịp thở. Chiếc váy người dân tộc thực ra cũng chỉ là tấm vải quấn quanh người che phần dưới, khép chờm hai mép vải ở đằng trước. Giờ nàng đang ngồi dạng chân trên bụng anh nên nó như được mở toang và người dân tộc đâu có biết dùng đồ lót. Luận nhìn thấy rõ cả một vùng cấm tam giác đang mời gọi. Bản năng giống đực làm cái của nợ trong quần xà lỏn tự do nổi loạn, bất chấp kỷ luật dân vận mà D trưởng dặn dò lúc giao nhiệm vụ. Cái đầu Luận bảo đừng mà bên dưới thì cứ cương lên. Cô gái cũng cảm nhận được sự cương nở ấy, thoáng đỏ mặt, nhưng… thích… Nàng cười rất hồn nhiên, chống hai tay lên cỏ, từ từ cúi xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối, buông thả cho mọi sự cuồng nhiệt, đê mê diễn ra sau đó. Suốt một đêm, giữa rừng xanh kỳ bí, họ thành Êva và Adam, quấn vào nhau lăn lộn nhiều lần, quên đói, quên mệt, quên cả tiếng pháo 105 ly rầm trời bắn vào cứ điểm Cà Tang, chỉ thấy tràn trề lạc thú nơi hoang dã…

*
* *

Cái đêm vụng về, bị động khi tập làm đàn ông trước giờ tiểu đoàn nổ súng là những khoảnh khắc thần tiên nhất trong đời, nhưng vì hai chữ “lập trường” ám ảnh, buộc Luận phải cố quên nó. 33 năm thoắt qua đi, mỗi lần nhớ đến D trưởng An, nhớ đến Phát, anh phải cảm ơn số phận cho mình cái cơ hội nếu có chết như Phát cũng đã biết mùi đời. Dù đói, mệt, nhưng sức trai tuổi 20 vẫn đủ cho anh hưng phấn quá tam ba bận. Sáng dậy, biết tên cô gái là Hơ Miêng, tên một loài hoa dại của núi rừng, anh sung sướng cắn vào đùi non của nàng, đòi thêm một lần cuối trước lúc chia tay. Chỉ cách một bờ ruộng, anh chứng kiến thằng Phát A phó không được như vậy. Nó còn “mất lập trường” hơn anh, úp mặt vào chỗ ấy gào lên vì sung sướng, gọi tên các thủ trưởng xem ai sướng hơn nó. Nhưng nó vừa qua trận sốt rét còn đâu sức lực, chỉ sau một lần đã nhọc phờ, trên bảo dưới không nghe, đành bất lực làm tình bằng tay, bằng lưỡi. Khổ nỗi cô gái của nó tên Hơ Ngoan mà chẳng hiền, mỗi lần bị Phát kích động nàng lại cong người rú lên những âm thanh điên dại, rồi chồm dậy đè lên người nó, dùng cái của mình nhay đi nhay lại mãi cái của Phát đang héo rũ, không sao ngóc lên được. Chuyện “mất lập trường” này chỉ hai thằng biết, sống để bụng, chết mang theo, hở ra là tong đời. Phát chết vì một mảnh bom B52, khi đơn vị rút khỏi huyện lỵ Quế Sơn, chuyển quân về Sơn Bình, gần ngã ba sông Thu Bồn và sông Trường. Tội nghiệp cho nó, chết vào lúc 3 giờ sáng chắc là đói lắm. Hồi chiều, đơn vị hết gạo, mỗi thằng chỉ được ăn nửa bát ngô bung vàng khè, hạt to và cứng như răng ngựa. May mà nó còn kịp được biết tý chút mùi đời. Phát chết rủi cho nó, nhưng cũng có phần may cho Luận vì cái tội “mất lập trường” kia chỉ còn là bí mật của riêng anh. Nói vậy quả là đểu và bất nhẫn lắm lắm! Song “một miệng thì kín…”, cổ nhân đã dạy rồi. Phát là thằng bạn tốt nhất trần đời của Luận. Nó cùng học khoa Lý trường đại học Tổng Hợp Hà Nội với anh, cùng nhập ngũ một ngày. Trong tiểu đội trinh sát, nó luôn giành phần việc nặng, việc nguy hiểm thay cho Luận. Đi dã ngoại, kiếm được miếng ăn tươi, nó luôn mang về dúi vào màn của anh. Ăn vụng lúc ngủ cũng nhục lắm, song ở đời khi người ta đói cũng có lúc đành chấp nhận. “Đồ ăn thì ít, chia ra tất cả cùng đói, chi bằng để một thằng no”, Phát thường động viên bạn như vậy. Chỉ có điều tính Phát hay bô lô ba la, hứng lên nếu nó lỡ mồm khoe với thằng nào chuyện Luận với Hơ Miêng thì còn đâu cái thành tích “lập trường vững vàng” bấy lâu anh khôn khéo ẩn mình, được các thủ trưởng biểu dương nhiều lần. Nói như Bảo, cái thằng lính trinh sát nổi tiếng gan dạ, đa tài nhất tiểu đoàn: “Hai tiếng lập trường nghe mơ hồ, trừu tượng và thối khắm nhất mày ạ! Nó là cái con C gì cơ chứ? Ấy thế mà suốt cả một thời gian khổ, oanh liệt, nó bỗng thành thứ vũ khí hiểm độc để người ta vùi dập hay tâng bốc một con người cụ thể.” Nạn nhân của hai chữ lập trường đau nhất cũng là Bảo. Chuyện xảy ra chẳng đáng gì phải kết tội, phê bình, kỷ luật, nhưng Luận ngày ấy đã không dám can đảm đứng ra bênh vực cho chiến sĩ trinh sát ưu tú của tiểu đội mình. Tháng 3 năm 1975, các khẩu đội pháo 105 ly của tiểu đoàn được lệnh bao vây, khống chế sân bay Đà Nẵng và bến cảng Tiên Sa, không cho địch rút chạy an toàn. Bảo đã gan dạ chỉ huy một nhóm bám sát mục tiêu, tính toán chính xác tọa độ, giúp các khẩu đội trưởng kết toán góc độ và hướng bắn. Lẽ ra Bảo được tuyên dương anh hùng, thưởng Huân chương chiến công, không may giữa lúc ta ăn mừng chiến thắng, anh vớ được bộ quân phục thủy quân lục chiến ngụy còn mới cứng, sẵn có máy ảnh chiến lợi phẩm, anh liền mặc đồ của ngụy, chụp vài pô ảnh làm kỷ niệm nên bị quy tội mất lập trường, chịu án kỷ luật khá nặng. Vì thế, sau ngày thống nhất, Luận được giải ngũ tiếp tục vào đại học rồi đi làm nghiên cứu sinh ở Nga; còn Bảo vẫn ở lại đơn vị, tiếp tục đánh trận ở biên giới Tây- Nam. Điều làm cho Luận khổ tâm, thương bạn nhất là khi gặp lại Bảo ở chiến trường về, biết anh bị thương đúng vào chỗ hiểm, mất khả năng làm thằng đàn ông. “Lính ta ra khỏi cuộc chống Mỹ, vấp phải lũ lính nhãi ranh 14- 15 tuổi của Khơ Me đỏ mà phải gọi chúng là bậc “cụ” về chiến tranh du kích, mày ạ!”- Bảo ôm chầm lấy bạn chua chát nói. Anh đi trinh sát bị vướng mìn, các chuyên gia y học lão luyện ở Viện 103 cũng chỉ có thể tạo hình bằng cách nối thêm vào cái ấy của anh một mẩu nhựa, không đủ thỏa mãn đàn bà nên 3 lần cưới vợ rồi 3 lần phải ly dị. Từ lính pháo tầm xa đầy uy lực thời chiến, nay anh thành “lính pháo phòng không” thời bình.

*
* *

Đêm nay sao dài gấp nghìn lần cái đêm Luận cùng Hơ Miêng ân ái bên bờ suối. Có biết bao sự việc, gương mặt của thời máu lửa cứ ẩn hiện trong đầu anh. Cuộc gặp mặt các cựu chiến binh của trung đoàn tăng - pháo kết hợp ở Quân khu V thời chống Mỹ có thể sẽ đảo lộn cuộc sống của Luận những năm tháng sau này. Bảo gặp anh không còn vồ vập, suồng sã như mọi lần. Cái nhìn của Bảo hướng vào anh như thôi miên, nhiều ẩn ý khó đoán. Thường thì trong các cuộc gặp mặt, lúc họp chung, Bảo ngồi im re, chỉ hào hứng tán bậy, chửi tục văng mạng khi vào tiệc rượu. Lần này Bảo đến trễ, nồng nặc hơi men, mắt đỏ vằn, dắt theo một bé gái chừng 13- 14 tuổi. Hội trường khi ấy đang nghiêm trang phát kỷ niệm chương và cuốn lịch sử pháo binh Quân khu V. Trên hàng ghế danh dự, Luận được ngồi chung với mấy vị tướng và các thủ trưởng cũ nay đã về hưu, vinh danh lão thành cách mạng. Bảo bước vào, nhìn xoáy vào Luận vài giây rồi quay sang cháu bé giới thiệu:

- Xin các thủ trưởng cũ, mới và anh em chiến hữu nhìn cho rõ, đây vừa là cháu nội vừa là cháu ngoại của trung đoàn ta, chính xác hơn là của tiểu đoàn pháo 105 ly anh hùng.
- Nói rõ và cụ thể xem nào, Bảo ơi! - Cả hội trường nhao lên.
- Thế là đủ, cần gì phải nói rõ. Thằng nào có con có cháu thì tự biết. Đau xót là ở chỗ tôi vừa cứu cháu Hơ Linh thoát khỏi ổ mại dâm tại thị trấn Hà Lam, thủ phủ huyện Thăng Bình. Cả bố lẫn mẹ cháu đều là giọt máu thuần chủng cách mạng của lính ta gửi lại trong trận đánh Quế Sơn năm 1972. Từ Hà Lam vào khu căn cứ của trung đoàn ta chỉ có hơn 40 cây số theo quốc lộ 16E mà vợ chồng chúng nó sau 30 năm hoà bình, sống khổ như chó lợn nên cháu Hơ Linh mới ra nông nỗi này.
- Cậu lại phát biểu mất lập trường rồi, Bảo ơi! Về chỗ ngồi đi cho hội nghị tiếp tục - Một thủ trưởng cũ ôn tồn nói.
- Ơ hay!...Thế nào là “lập trường” hở thủ trưởng? Nó là cái Đ gì mà làm khổ tôi đến mức bây giờ cái C cũng chẳng còn để lưu truyền nòi giống tổ tiên dòng họ? Sống thật với bản năng tính người, nói ra những sự khốn nạn là “mất lập trường” ư? Này Luận! Cậu đang ngồi hàng ghế danh dự vì cậu đã lên quan, làm thứ trưởng một bộ quan trọng, hãy trả lời đi.

Luận cố tránh ánh mắt nhìn như moi tim, móc óc của Bảo. Anh xúc động rưng rưng, đứng dậy, bước khỏi hàng ghế danh dự, lại gần bạn, dìu Bảo về chỗ ngồi ở cuối hội trường. Thật lòng anh không muốn trở lại chỗ cũ, nhưng ngồi gần Bảo và Hơ Linh lúc này thì anh không dám. Khỏi cần Bảo giới thiệu, chỉ mới thoáng nhìn cô bé bước vào hội trường, anh đã nhận ra nét quen quen. Chẳng lẽ anh đã có con gái với Hơ Miêng. Chẳng lẽ Phát và Hơ Ngoan đêm ấy chỉ đủ sức một lần hoan lạc mà lại kịp có con trai với nhau. Chẳng lẽ mới 33 năm mà số phận đã ghép con anh, con Phát thành vợ chồng, sinh ra bé Hơ Linh. Trời ơi! Thật kỳ diệu và cũng thật khủng khiếp. Liệu Bảo có nhầm lẫn không và nếu đúng thì sẽ phải xử sự ra sao đây? Luận biết, từ ngày xuất ngũ, Bảo về quê Bát Tràng theo nghề ông cha, mở lò gốm mỹ nghệ. Mười năm lại đây, doanh nghiệp của anh phát đạt, nổi tiếng về nhiều sản phẩm xuất khẩu. Năm nào, đến dịp 30 tháng 4, anh đều về thăm lại chiến trường xưa, tặng địa phương vài chục triệu đồng. Sao Bảo không hề kể gì với Luận về Hơ Miêng và Hơ Ngoan…

Luận tìm về Bát Tràng không làm Bảo ngạc nhiên. Anh nắm tay bạn, giọng lanh tanh:

- Về rồi hả? Tao biết sớm muộn gì mày cũng về tìm tao hỏi chuyện. Về sớm thế này là tốt. Nhưng sao lại đi xe máy, không dùng ô tô thứ trưởng đưa vợ con mày đi cùng? Sợ hả?
- Không, sợ thì không, hoang mang tí chút thì có.
- Sợ vợ nổi tam bành còn có lý, chứ hoang mang vì danh dự thứ trưởng làm cái Đ gì cho tổn thọ.
- Không… Tao chỉ hoang mang vì liệu mày có nhầm không và cái chuyện tao với Phát làm đêm ấy mày biết từ bao giờ?

Bảo đấm nhẹ vào lưng Luận cười xả láng:

- Có thể mày không tin, nhưng tao biết tỏng mọi chuyện ngay từ đầu.
- Và mày im lặng giữ kín suốt những năm ở chiến trường?
- Tố giác chúng mày ư, tao sẽ không bằng con chó ghẻ, bởi tao cũng thèm được như thế. Tao thấy hai thằng có ống nhòm chạy về một phía là đoán ra lý do, lính trinh sát rất nhậy cảm. Song phải làm nhiệm vụ trước đã. Tao đuổi theo một thằng thanh niên loáng cái là chộp được. Ngỡ tao là lính cộng hoà, tay dao, tay súng như sắp làm thịt mình, nó lạy như tế sao, thú nhận mình là du kích, khai ông ổng từng trận địa pháo để được tha mạng. Điên tiết, tao tống vào mõm nó mấy quả đấm thôi sơn, trói ghì vào gốc cây, chẳng thèm giải thích nữa. Xong xuôi, tao lộn trở lại hướng bờ suối. Giời ơi là giời! Nhìn chúng mày với hai em giữa nơi hoang dã tao thèm rỏ nước dãi. Người tao như phát cuồng lên. Trong đêm tối, tao tưởng tượng ra từng động tác của chúng mày và khao khát. Nhưng nếu tao xông vào sẽ làm chúng mày mất hứng, đòi mần chung thì tao hoá thành đồ súc vật…
- Vậy mà bấy lâu tao cứ ngỡ Phát chết rồi thì chuyện này của tao cũng chôn theo nó. Mày là ân nhân của tao, không biết lấy gì báo đáp.
- Không hẳn thế. Nếu tao tố giác, mày bị kỷ luật, có thể sẽ biên chế sang địa phương quân thì Hơ Miêng sẽ được có chồng, đâu đến nỗi khổ nhục về sau.
- Tại mày không cho tao biết sớm - Luận thở dài, mắt rớm lệ.
- Đừng quá buồn, tao cũng mới biết chuyện đời của Hơ Miêng, Hơ Ngoan thôi.
- Mày về thăm khu căn cứ thường xuyên đã 10 năm cơ mà?
- Nhưng chưa từng gặp hai nàng.
- Sao thế?
- Họ sống biệt lập trong rừng, bị tách biệt khỏi cộng đồng. Cái thằng du kích chết dấp, lạy tao như tế sao ấy, từ lâu đã mê Hơ Miêng. Sau năm 1972, Quế Sơn giải phóng, nó được làm chủ tịch xã. Biết Hơ Miêng có thai, nó vẫn lẵng nhẵng chạy theo đòi cưới, bị nàng từ chối. Ăn không được thì đạp đổ, nó kết tội Hơ Miêng và Hơ Ngoan mất lập trường, ngủ với lính cộng hoà nên khai trừ khỏi Đảng và du kích, đầy họ vào sống trong rừng. Hai đứa trẻ lớn lên trong chiếc lán nhỏ bé giữa rừng, bên hai bà mẹ cô độc nên chúng thành vợ chồng rất sớm cũng là lẽ tự nhiên. Hơ Linh, cháu ngoại của mày ra đời trong hoàn cảnh trớ trêu đó. Một gia đình ba đời tủi khổ vì ma ám “lập trường”, thì mình tao mất cái con C vì nó có là gì giữa cuộc đời này.
- Thằng chủ tịch xã chó đểu, tao muốn băm vằm nó - Luận nghiến răng rít lên phẫn nộ.
- Thằng ấy đi tù vì tham ô đồ cứu tế đồng bào bị lũ lụt từ lâu rồi, không đợi mày phải ra tay. Giá như trước lúc ra Bắc, mày không sợ thứ ma ám “lập trường”, đi tìm Hơ Miêng!
- Mày bảo tao bây giờ phải làm gì?
- Cuối năm ngoái, tao vào khánh thành trường tiểu học do mình bỏ tiền toàn bộ ra giúp xã xây dựng, nghe nói có một cháu học sinh lớp 5 bỏ học, đi hoang, gia đình và nhà trường tìm kiếm gần một năm chưa thấy. Nghe chuyện về hoàn cảnh Hơ Linh tao xúc động, đánh xe vào rừng tìm gặp bố mẹ nó, hoá ra số trời run rủi lại gặp cả Hơ Miêng và Hơ Ngoan. Giờ thì họ ổn rồi. Tao đã nhờ bạn bè tìm được Hơ Linh, xây một ngôi nhà 2 tầng ở thị trấn huyện làm cửa hàng cho họ kiếm sống. Mày chỉ cần đưa vợ con vào gặp họ nhận mặt con gái, con rể với cháu Hơ Linh là đủ.
- Nhưng tao muốn làm hơn thế…
- Cái đó tùy mày, nhưng đừng miễn cưỡng mà đắc tội “mất lập trường” với vợ con không biết chừng… Mày biết không, khi thằng chủ tịch xã tuyên bố kỷ luật, hai nàng Hơ Miêng, Hơ Ngoan cùng nói: “Chúng tao theo cách mạng là thật cái bụng, đâu có lươn lẹo như mày. Chỉ có cái L của chúng tao là không biết lập trường của tổ chức tròn méo thế nào thôi. Ra tổ chức thì ra, vào rừng thì vào, chúng tao Đ sợ, chúng tao đi làm một kiếp người”. Tao nghe họ kể như nghe lời một triết gia vĩ đại. Cái sự thần thánh của cuộc chiến tranh giành độc lập, sách báo viết đã nhiều, đọc lên cũng sướng cái lỗ tai. Nhưng đó là dương bản của chiến tranh, lũ nhà văn, nhà báo mặc sức tô vẽ muôn hồng nghìn tía, tao Đ cần cái dương bản ấy. Cái phần âm bản của chiến tranh chỉ có hai màu tối sáng, những thằng lính như tao với mày gậm nhấm đến hết đời. Chuyện của mày với Hơ Miêng chỉ là mảnh vụn rất nhỏ của âm bản khổng lồ mà mấy mươi năm gậm đã hết đâu…

*
* *

Chia tay Bảo ra về, lòng Luận rối bời, the thắt. Anh phóng xe máy như điên, mặc cho số phận may rủi có thể sẽ ném thân xác anh vào gầm ô tô, càng hay, cho quên đi tất cả. Bảo muốn anh chỉ đưa vợ con vào Quế Sơn gặp mặt, nhận người rồi nhường hai bà Hơ Miêng và Hơ Ngoan làm vợ nghĩa tình cho Bảo để Bảo có con, có cháu như bao người bình thường khác. Đến con C của Bảo cũng bị chiến tranh tiện đứt mất thì lời đề nghị ấy là chân thành, hợp lý chứ đâu phải vì thương hại cho hoàn cảnh éo le của Luận. Bảo nói, đã thắp nhang khấn vái, xin với Phát rồi, còn Luận? Liệu anh có thể nghe theo lời bạn, chấp nhận số phận an bài, đừng phá vỡ tổ ấm gia đình đang hạnh phúc. Nhưng anh vẫn thấy không thể… Anh muốn làm một thằng người cho đáng mặt người, sao đời lại xui khiến anh phải hành xử không hơn gì một con vật?... Luận không về nhà. Anh lang thang khắp Hà Nội, rồi tìm một khách sạn yên tĩnh ở ngoại ô trăn trở với điều thỉnh cầu của bạn…

Hà Nội 5/2005
VNT

RỒNG ĐÁ (Tập truyện) Tác giả: Lê Mai, Vũ Ngọc Tiến

5. VỊ PHỒN THỰC


1- Tôi tỉnh dậy sau một đêm dài mộng mị. Hắn và cả cái phòng tranh quái đản, trưng bày ở Bảo tàng Mỹ thuật cứ ám ảnh tôi suốt đêm, không sao chợp mắt được, đầu óc rối tinh, bộn bề những kỷ niệm về tình bạn giữa tôi với hắn một thời lửa máu. Ngần ấy năm bầu bạn thân thiết, tôi chỉ biết hắn đã từng làm thơ, viết văn, rồi vì thứ của nợ ấy hắn dính đòn, bị đẩy ra mặt trận, thành lính trinh sát pháo binh, cùng tiểu đội với tôi ở chiến trường khu Năm ác liệt. Đành rằng hắn có chút hoa tay, vẽ sơ đồ các cứ điểm của địch chuẩn xác và sinh động đến kỳ lạ, nhưng để làm họa sĩ lại là chuyện khác. Thơ hắn tứ lạ, lời đẹp mà hắn lại gác bút mấy chục năm, rồi chuyển sang nghề vẽ, làm tôi ngỡ ngàng…

2- Chẳng biết hắn học quy luật về ánh sáng, hình sắc, đường nét ở đâu, từ bao giờ mà phòng tranh vừa mở đã gây ồn ào dư luận, khen chê các kiểu. Mới tập tọng vào nghề, hắn đã nhảy ngay vào lĩnh vực tranh tiêu đề khổ lớn, mỗi bức to bằng lá chiếu đại. Đã là tranh tiêu đề thì đằng sau bố cục và những gam màu còn ẩn chứa nội hàm tư tưởng triết mỹ của tác giả, chứ đâu có bỡn. Vậy mà trong hết thảy các bức vẽ, hắn đều đặt tâm điểm triết mỹ vào hình tượng người đàn bà khỏa thân, ngồn ngộn những V và L!

Choán hết mặt tường chính diện ở gian đại sảnh, hắn trưng bày bức tranh “Thăm lại chiến trường xưa”, khiến ai bước vào, thoạt nhìn đã vãi linh hồn. Cái chiến trường khu Năm tôi với hắn ở lâu nhất là Quảng Nam, Quảng Ngãi. Nó ác liệt tới mức lính ta chết vì bom đạn đã nhiều nhưng chết đói cũng không ít. Trên hồ sơ báo tử từ mặt trận gửi về Bộ Quốc phòng chỉ ghi lạnh lùng hai chữ “sốt rét”, nhưng xin các ông bố bà mẹ, những người vợ hiền ở hậu phương thời ấy biết cho, lũ lính chúng tôi sốt rét ít thôi, đa phần là chết đói. Đói vì mấy ông chỉ huy hám thành tích, vững lập trường “tự lực cánh sinh”, chỉ nhận người và vũ khí, còn lương thực xin cấp trên cho được tự túc. Xứ Quảng đói nghèo, miền Tây Quảng Ngãi càng đói nghèo, nhưng lại rất thơ mộng với núi Ấn, sông Trà. Làm lính khu Năm, ai mà quên được những đêm trăng bên dòng Trà Khúc ngồi ngắm núi Ấn với hòn Nghiên, hòn Bút. Hắn trở lại chiến trường xưa vẽ những bóng ma đồng đội xiêu vẹo, lả đi vì đói, dìu nhau đi giữa cánh rừng đại ngàn ở đôi bờ sông Trà Khúc. Tất cả chỉ lờ mờ, không rõ nhân dạng. Người xem tranh chỉ thấy hắn vẽ và đặc tả người đàn bà khỏa thân nằm xiên chéo toàn bộ bức tranh. Ở phần dưới là dòng Trà Khúc bị bãi nổi giữa sông tách đôi thành hai vế đùi đàn bà lấp loáng dưới trăng khuya. Càng nhìn ngắm kỹ, ta càng thấy một mảng lồi tam giác kẹp giữa hai nhánh sông - khóm cỏ lau ngập nước đang trổ bông - chính là cái ấy của đàn bà, rõ từng múi thịt, lún phún lông tơ mịn màng. Thiếu phụ mang tên dòng sông Trà Khúc ấy có bộ ngực đồ sộ, nhô lên chất ngất hai đỉnh hòn Nghiên, hòn Bút của núi Ấn, và hút sâu trong khoảng không giữa hai bầu vú ta thấy ẩn hiện gương mặt thiếu phụ ngủ vùi trong gối mây. Một gương mặt bơ thờ, khắc khoải đợi chờ tạo hình bởi viền sáng của mảnh trăng hạ tuần về sáng, bị che lấp bởi những vạt mây vần vũ xung quanh. Những hồn ma lính đói vật vờ hành quân tạo thành dải băng đen vắt ngang qua bụng thiếu phụ… Tôi sững sờ trước ý tưởng kỳ lạ, nét vẽ tài hoa của hắn, con tim như có chùm gai nhọn của cây rừng Quảng Ngãi đâm lút vào, chắn ngang từng mao quản.

Xem tranh của hắn chỉ thấy ngồn ngộn V và L rất phồn thực. Nhưng có điều lạ, người đàn bà nào của hắn cũng khỏa thân ở nơi hoang dã, bên bờ sông hay trên con đò, dưới chân núi hay lẫn vào trời mây mờ ảo. Có lẽ gây nhiều tranh cãi, ồn ào dư luận khen chê nhất là gian cuối cùng, trưng bày bộ “Tứ bình Cao Bá Quát” của hắn. Bốn bức tranh trong bộ tứ bình phỏng theo nội dung một bài cảm tác ngẫu hứng của thi sĩ họ Cao, khi ông ngồi hát ca trù với cô đào Ánh Nguyệt nổi tiếng đất kinh kỳ. Lời ca ông viết là ba khổ thơ vô đề, không theo niêm luật, lẫn lộn vừa Nôm vừa Hán. Nó rất ngông đời, nổi loạn và cũng rất đa tình như tính cách của ông vậy:

Sơn cao nhất phiến nguyệt
Đã chơi trăng phải biết tình trăng
Sơn chi thọ đối Nguyệt chi hằng
Sơn có Nguyệt càng thêm cảnh sắc.

Nguyệt quải hàm Sơn thi bán bức
Sơn hàm minh Nguyệt tửu thiên tôn
Núi chưa già, trăng hãy còn non
Trăng dù khuyết, tình vẫn tròn với núi.

Rượu một bầu, thơ ngâm một túi
Góp gió giăng làm bạn với non sông
Núi kia tạc để chữ đồng
Trăng kia nhớ mặt anh hùng này chăng?

Bài thơ được hắn xé ra thành bốn bức tranh, đặc tả thi sĩ họ Cao và cô đào Ánh Nguyệt. Có lúc ông cởi trần ngồi ngắm trăng, cô độc như một trái núi, có lúc ông đang hành lạc với nàng trăng. Cô đào Ánh Nguyệt chính là nàng trăng ấy, khỏa thân ở bốn tư thế khác nhau, khi xa thì như đùa rỡn giữa trăng với người, khi gần thì hoặc chàng phủ lên nàng, hoặc nàng phủ lên chàng, cô tịch và hoang dã, chẳng bợn lên chút cảm giác nhục dục nào, buộc người xem tranh phải suy nghĩ mông lung, khắc khoải…

3- Tôi đang lẩm nhẩm đọc thơ được chép theo lối thư pháp hiện đại ở góc dưới bên phải bức tranh, hắn lại gần cấu nhẹ vào vai tôi hỏi:

- Được không? Bộ tứ bình này thế nào?
- Chịu thôi, tranh của mày toàn V với L, nom khiếp quá!
- Mày nói xạo. Nhìn vào mắt người xem, tao biết ai là người đọc được tranh của mình.
- Cứ cho là thế đi, nhưng tại sao mày bỏ hẳn thơ văn suốt mấy chục năm để lúc về già lại đổ đốn làm thằng thợ vẽ toàn V và L?
- Văn chương ư? Quên đi!... Dù có dùng nghệ thuật ẩn dụ đến đâu chăng nữa thì phương tiện biểu đạt của văn chương vẫn là chữ và lời, ở xứ mình dễ mang vạ vào thân. Tao đã ngấm đòn từ lâu quá rồi, hãi lắm!
- Thế còn hội họa?
- Hội họa có phương tiện biểu đạt riêng là ánh sáng, hình sắc, đường nét. Tao vẽ V và L để nói cái điều tao muốn nói. Ai muốn hiểu thế nào tùy họ. Tao nghĩ và tao vẽ là quyền của tao. V và L có gì phải kiêng kỵ đâu. Nó là cái đẹp vĩnh cửu, cái đẹp tự nó, chẳng cần phải che đậy. Khắm như đậu phụ chấm mắm tôm mà khi ăn rồi ai cũng nghiện, bởi hiện sinh của mắm tôm không chỉ có mùi, còn có vị nữa. Vị mới là cái tinh cốt của đời.
- Nhưng tao vẫn ngờ rằng, mày vẽ V và L còn vì câu chuyện xưa cũ ngày ấy, phải vậy không?
- Đúng. Tao không thể nào quên đôi bầu vú căng mọng sữa của nàng đã cho tao sự sống. Giờ đã qua gần trọn một kiếp người, tao mới ngộ ra bầu vú của nàng đã dạy tao phải sống đúng như tao muốn sống. Tao phải là chính mình. Bầu vú của nàng là tuyệt đỉnh siêu việt để tao siêu thăng giữa thiện - ác, chính - tà, chiến tranh - hòa bình, hiện tại - quá khứ…

Hắn nói một thôi một hồi về sự siêu thăng suốt hai năm qua trốn biệt mọi người lên tận rừng quốc gia Ba Vì để lập xưởng vẽ. Hắn nói rồi đi, mái tóc bồng bềnh, chòm râu phơ phất, áo quần xộc xệch, chân nọ đá chân kia như thằng say rượu… Giữa bức “Thăm lại chiến trường xưa” và bộ “Tứ bình Cao Bá Quát” ngỡ là hai chủ đề khác biệt mà sao tôi đều thấy mình và hắn hiện diện trong đó cùng sự hiện sinh muôn thủa những kiếp người. Đêm, tôi bị ám ảnh khôn nguôi về hình tượng người đàn bà khỏa thân nơi hoang dã rất phồn thực trong tranh, thao thức nhớ lại chuyện xưa ở chiến trường khu Năm.

4- Ngày ấy, những thằng lính đi B có bằng cử nhân hay tú tài như chúng tôi còn là của hiếm, dùng để tuyên truyền cho dân miền Nam về thiên đường xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Vì vậy, nếu có bị thương, nhưng chưa đến mức nằm liệt, các cậu cử, cậu tú chúng tôi cũng không được chuyển ra Bắc. Xuất viện là họ điều chúng tôi về An toàn khu làm lính cơ quan hay phân về làm bảo vệ ở các bệnh viện, trại giam tù binh… Tôi bị thương vào cánh tay, còn hắn bị thương ở vùng ngực, gãy hai chiếc xương sườn. An toàn khu có khoảng gần trăm người như chúng tôi, già nửa là lính Hà Nội, đã tốt nghiệp cấp III phổ thông, còn từ cấp chỉ huy đến lính đa phần là người địa phương khu Năm. Họ nhìn chúng tôi hát hò, đọc sách, làm thơ… với con mắt kỳ thị, xem đám lính Hà Nội là lãng mạn tiểu tư sản, lập trường bấp bênh, thiếu tinh thần cách mạng triệt để. Khổ nỗi, các cô gái địa phương hay các nữ giao liên từ vùng địch ra lại cứ xoắn lấy các chàng trai Hà Nội, xem chúng tôi giải toán lớp 12 cứ mắt tròn mắt dẹt. Điều này càng gây chướng mắt các ông chỉ huy. Càng bị cô lập, phân biệt đối xử, chúng tôi càng thương quý nhau hơn, nhất là tôi với hắn vốn cùng một tiểu đội trinh sát, cùng bị thương trong trận đánh cứ điểm Sơn Tịnh. Ngày ấy, lính ta đói dài, ngô sắn còn không đủ ăn, gạo càng hiếm, nói chi đến thịt cá. Chúng tôi thường tụ tập nhau lén đi cải thiện. Nói “cải thiện” cho vui thôi, thực ra là đi ăn trộm của tập thể cơ quan hay của dân bất cứ thứ gì nhét được vào bụng để tồn tại qua ngày. Vì vậy, lính Hà Nội thường hay bị điều đi công tác để tách xa nhau ra. Công tác nguy hiểm nhất là xuống cơ sở ở đồng bằng lấy gạo, muối, thực phẩm. Địch biết quân ta đói nên tung một lữ đoàn thiện chiến bao vây, chốt chặt các ngả đường từ căn cứ xuống đồng bằng. Chỉ huy lữ đoàn là viên trung tá còn rất trẻ, chống cộng đến cùng, nhưng cũng không ưa sự có mặt của người Mỹ. Thời sinh viên, anh ta đã từng biểu tình chống Mỹ xúc phạm các nữ sinh Việt Nam. Là con một trong gia đình trí thức lớn, danh giá bậc nhất ở Sài Gòn, lại làm rể ông nghị sĩ quốc hội, nhưng vì coi thường các tướng lĩnh kém mưu, nhát gan nên anh ta bị điều ra miền Trung. Nuôi mộng vinh thăng cấp tướng để thâu tóm quyền lực, thay đổi thế cờ chiến cuộc nên anh ta xông xáo xuống từng đơn vị, kiểm tra thường xuyên các chốt mai phục không để sơ hở. Là người túc trí đa mưu, anh ta muốn tiêu diệt căn cứ không cần đạn pháo cỡ lớn mà bằng cái đói. Chỉ huy cấp dưới thường được trung tá nhắc nhở: “Đã là chiến tranh tất có một bên phải chết. Muốn sống ta phải tàn bạo với kẻ địch, lương tâm, đạo lý gửi lại cho thân nhân, bạn bè cất giữ ở hậu phương. Gặp thằng lính Việt cộng nào đi lấy gạo các anh cứ việc bắn bỏ rồi chặt đầu bêu ở ven đường cho chúng khiếp vía, chịu đói mà chết dần.”…

5- Tôi nhớ, vào tháng hai âm lịch năm nhâm Tý (1972), giữa kỳ giáp hạt, toàn khu căn cứ đói dài. Một tốp 5 người đi lấy gạo bị địch chặt đầu bêu ở cọc tre ven đường, có đến 3 người là lính Hà Nội. Hắn như phát rồ vì thằng bạn rất thân cũng nằm trong số đó. Đành rằng chiến tranh là cối nghiền thịt khổng lồ, con người ở cả hai phía đều buộc phải tàn ác như nhau cả thôi. Thế nhưng nếu hôm qua thằng bạn còn nằm chung một ổ, ăn cùng một mâm bỗng hôm nay bị đối phương chặt đầu thì ta lại chỉ thấy địch là tàn ác, còn ta có nghĩa vụ đòi lại nợ máu. Cả khu căn cứ sôi sục muốn trả thù cho đồng đội và cũng rất căng thẳng vì đói. Tư lệnh An toàn khu quyết định mở trận đánh phá vây, tiêu diệt lữ đoàn của địch. Mũi đánh vu hồi vào sở chỉ huy lữ đoàn ở tuyến sau của chúng là quan trọng và nguy hiểm nhất, được tất cả lính Hà Nội chúng tôi tình nguyện tham gia. Hắn và tôi được cử đi trinh sát tình hình sở chỉ huy lữ đoàn. Sau 10 ngày luồn sâu, mật phục và quan sát, hai đứa đã nắm được quy luật hoạt động và hệ thống bố phòng của địch. Phải thừa nhận viên trung tá chỉ huy là đối thủ tài ba, không hổ danh là lính trí thức con nhà nòi của phía bên kia, hệ thống bố phòng không tìm thấy một chút sơ hở. Nhưng ở chiến trường, đôi khi mọi sự cẩn trọng, chu đáo có thể bị phá vỡ bởi một yếu tố ngẫu nhiên. Ngày thứ 10, đang chuẩn bị rút về cứ, qua ống nhòm, tôi và hắn phát hiện thấy một chiếc trực thăng hạ cánh ở sân sở chỉ huy lữ đoàn. Bước ra khỏi máy bay là một thiếu phụ đẹp đến mê hồn. Gương mặt nàng đôn hậu như Phật bà Quan Âm giáng thế. Vóc dáng và y phục nàng toát lên vẻ kiều diễm, cao sang mà vẫn dễ gần bởi nụ cười hiền dịu. Đi theo nàng còn có vài cô gái, thảy đều sang trọng, trẻ đẹp. Họ mang theo rất nhiều quà và cả trăm két bia. Đêm nay chắc hẳn sở chỉ huy lữ đoàn có đại tiệc, lính cũng như quan sẽ tắm bằng bia và rượu. Tôi và hắn sướng run lên, cắm đầu chạy băng rừng về nơi tập kết của đồng đội đang nóng chờ tin tức. Trận đánh diễn ra trong đêm tối trăng thật êm gọn đến bất ngờ, nhưng cái giá xương máu thật là khủng khiếp. Kẻ địch say mèm và hoảng loạn, còn chúng tôi thì như một lũ điên luôn miệng hô giết, giết và giết. Biết làm sao khác được, khi cơn cuồng nộ trả thù đã khiến tất cả như không còn tính người. Kẻ địch chạy - bắn, giơ tay hàng - bắn, bị thương lòi ruột cũng bắn. Máu người vung vãi khắp nơi, dây đầy áo lính, nòng súng bỏng rát, tiếng kêu rên thê thảm… Mặc kệ! Ngón tay trỏ của tôi và hắn chỉ còn một phản xạ nhấn cò súng. Thê thảm nhất là xác viên trung tá găm đầy đạn tiểu liên, đạn AK, máu me đầm đìa, thân hình nát bấy. Chúng tôi nhìn vào xác chết, hả hê vì trả được thù. Tất cả lặng đi vài phút, nhớ đến những cọc tre bêu đầu đồng đội những ngày qua, rồi cùng oà lên, nức nở gọi tên từng người… Bỗng cánh cửa sắt của tủ hồ sơ tài liệu bật mở và thiếu phụ lao ra ôm lấy xác chồng gào khóc. Tay nàng run run sờ mặt, vuốt tóc chồng. Mặt nàng úp lên lồng ngực đầy máu…

- Giết nốt con đĩ này thôi, anh em ơi!
- Cho nó đi chầu Diêm vương với thằng chồng ác ôn!
- Lột quần áo nó ra ngắm cho sướng mắt rồi hãy làm thịt!
- Phải đấy, xem thử cái L người Sài Gòn nó đen-trắng, dày-mỏng thế nào rồi hãy giết!

Hơn chục thằng lính Hà Nội đang cơn say máu, nhao nhao quát thét, ánh mắt man dại. Riêng hắn lặng đi, trán vã mồ hôi, mặt tái mét, trân trối nhìn thiếu phụ. Hắn lại gần, vực nàng đứng dậy và nghẹn ngào nói:

- Chúng mày nhìn đi! Ngực cô ấy căng đầy sữa, rỉ ra từng giọt, chắc vừa sinh con nhỏ. Đ mẹ, bắn giết thế đủ rồi! Trẻ thơ có tội tình gì đâu. Cuộc chiến này đã quá nhiều trẻ mồ côi, còn chưa đủ sao? Hãy tha cho cô ấy về với con. Đứa nào nói nữa tao bắn.

Thiếu phụ quỳ xuống, chắp tay vái lạy từng người, không nói được ra lời. Chúng tôi như bừng tỉnh quay đi, bàng hoàng đau xót, giấu những giọt nước mắt đang ứa ra. Từng người lặng lẽ lao vào bầu trời đen thẫm. Đêm ấy không ngờ tôi và hắn bị lạc nhau. Trên đường rút về cứ, hắn không may dẫm phải bẫy thú rừng của người dân tộc. Những mũi chông nhọn hoắt đâm vào đùi, vào bụng làm hắn ra rất nhiều máu. Vùng vẫy thoát ra khỏi hố bẫy thì hắn kiệt sức, nằm thiếp đi bên một bụi cây. Mờ sáng tỉnh dậy, hắn giật mình vì thấy mình đang gối đầu lên đùi người thiếu phụ hồi đêm. Vết thương ở đùi và bụng của hắn được nàng xé áo băng lại. Nàng là người thành phố, không quen đi rừng nên cũng bị lạc. Đây đã thuộc vùng giải phóng, nàng có thể sẽ bị bắt lại. Hắn định ngồi dậy chỉ vẽ đường đi cho nàng, nhưng vết thương nhói buốt, miệng khô rang vì ra nhiều máu, hắn nằm vật xuống, trong cơn mê sảng luôn miệng đòi uống nước. Nàng nhìn hắn bối rối, thương xót. Trời còn chưa sáng rõ, chạy đi tìm nước nàng có thể bị lạc một lần nữa, không khéo gặp thú rừng thì nguy. Hơn nữa, nàng có thể gặp Việt cộng hoặc du kích, sẽ bị bắt, không còn đường về với con. Nhìn ra bốn bề chỉ thấy núi và cây rừng, chẳng nghe thấy tiếng nước chảy, đang mùa khô, đào đâu ra nước bây giờ? Tiếng hắn thều thào “nước… nước…” khiến lòng nàng quặn thắt. Ngực nàng thì đang cương sữa, vắt đầy ra cỏ đã mấy lần... Lưỡng lự hồi lâu rồi nàng mạnh bạo vạch vú nhét vào miệng hắn. Phản xạ tự nhiên làm hắn chợt tỉnh, đẩy bầu vú của nàng ra, lắc đầu quầy quậy. Nàng càng cố ấn đầu vú vào, hắn càng dùng hết sức đẩy ra. Tức quá, nàng tát thật lực vào mặt hắn, quát to:

- Nước không có, muốn chết khát hay muốn sống?

Cái tát của nàng làm hắn trở nên ngoan ngoãn, thôi vùng vẫy, nhắm nghiền đôi mắt, từ từ há miệng ngậm vào đầu vú mút và mút. Nàng gần như nằm đè lên người hắn, dứt tung nịt vú, vắt kiệt cả hai bầu sữa. Hắn bú no nê dòng sữa của nàng cho đã cơn khát. Sữa cho hắn sức lực để hồi tỉnh. Khi đó hắn mới nhận ra cái cảm giác đê mê trước mùi da thịt của nàng. Sữa đã hết, nhưng miệng hắn còn ngậm chặt đầu vú. Bàn tay hắn mơn man lên da thịt trắng ngần và mịn màng, ấm nóng của bộ ngực đồ sộ như hai trái núi. Hắn không ngờ người thiếu phụ mảnh mai như nàng lại có bộ ngực phồn thực đến vậy. Hắn ngây ra nhìn gương mặt thánh thiện của nàng. Cái ấy của hắn đụng vào người nàng bỗng cương cứng lên, muốn xé rách lần vải quần quân giải phóng. Nàng nhìn hắn mỉm cười. Cái nhìn đầy cảm thông và bao dung của tình mẫu tử, chứ không phải của bạn tình, làm hắn chợt hổ thẹn vì sự nổi loạn trong cái của nợ, dù thằng đàn ông nào chẳng vậy…

Đúng lúc đó, ba người lính địa phương khu Năm xuất hiện. Họ túm tóc hắn lôi dậy, xỉ vả một hồi vì tội hủ hóa, rồi trói cả hai, giải về khu căn cứ. Chuyện của hắn có viết cả trăm lần vào bản kiểm điểm cũng không ai tin, ngoài tôi và mấy thằng bạn thân người Hà Nội. Hắn bị khép tội cố ý tha tù nhân có nợ máu, lại thông đồng với nàng bỏ trốn ra vùng địch. Từ thằng lính lập nhiều chiến công, bị thương về làm lính coi tù, nay hắn thành tù nhân đặc biệt của trại giam. Nàng bị giam ở trại phụ nữ, hắn bị giam ở trại nam giới, hai trại cách nhau một con suối, đằng đẵng gần nửa năm cách trở. Hàng ngày đi lao động trồng sắn, hắn và nàng cách bờ nhìn nhau đau đáu, nhớ thương, ấm ức. Tôi và mấy thằng bạn thân thường tìm cách gặp hắn an ủi, động viên hoặc làm liên lạc giữa hắn và nàng. Lâu dần tôi mới biết hôm đó nàng dùng trực thăng riêng của gia đình đi đón chồng về Sài Gòn chuẩn bị tu nghiệp lớp sĩ quan cao cấp ở Mỹ. Vì quá say sưa thù tạc, chia tay với chiến hữu nên sở chỉ huy lữ đoàn của chồng nàng mới bị quân ta tập kích, trở tay không kịp. Nàng bảo, anh ấy ngoài mặt trận phải buộc lòng làm con thú hung dữ, chứ về nhà lại hết mực yêu vợ, thương con, hiếu đễ với hai bên cha mẹ. Âu đây cũng là số phận!... Khi biết tin thằng cha chột mắt người khu Năm phụ trách trại giam nhiều lần ve vãn, có lần toan hãm hiếp nàng, hắn lồng lên, thề sẽ giết thằng chó đểu. Văng tục, chửi bới một hồi, hắn bưng mặt khóc hu hu như con nít, nài xin tôi và mấy thằng bạn tìm cách bố trí cho nàng trốn khỏi trại giam. Chúng tôi bàn bạc, lập kế hoạch rất chu đáo cho hắn và nàng cùng trốn về đồng bằng. Mất bao nhiêu công sức băng rừng, lội suối, chúng tôi mới đưa được hai người ra đến bờ sông Trà Khúc. Chỉ một bước là lên thuyền xuôi về vùng địch, hắn chợt đổi ý, quyết tâm ở lại, sẵn sàng chịu trách nhiệm một mình về việc nàng bỏ trốn để không liên lụy đến bạn bè. Việc đã gấp, tôi và mấy thằng bạn đành cắn răng, nuốt lệ chiều theo ý hắn. Chúng tôi tản ra canh chừng cho hắn và nàng ngồi chia tay bên mép nước, dưới ánh trăng lai láng. Tôi ngồi sau một bụi cây, xoay lưng về phía bờ sông. Đêm khuya thanh vắng, khoảng cách không xa, lại xuôi theo chiều gió nên tôi vô tình nghe rõ câu chuyện giữa hắn và nàng.
- Em thương anh quá! – Nàng bảo.
- Đừng lo, anh chịu đựng được, em cứ yên tâm tìm về với con và gia đình – Hắn động viên.
- May ra số phận còn cho mình gặp lại nhau.
- Hết chiến tranh, nếu còn sống anh sẽ tìm em.
- Em hỏi thật, anh đừng giấu.
- Hỏi đi, anh nghe đây.
- Cái hôm anh đẩy bầu vú em ra khỏi miệng, em đoán anh chưa từng một lần với đàn bà?
- Đúng vậy. Bạn bè anh nhiều đứa chết rồi vẫn chưa được làm đàn ông.
- Em muốn có thêm đứa con với anh. Chồng em đằng nào cũng chết rồi, oan hồn anh ấy sẽ không phiền trách.
- Nhưng bạn bè anh…
- Không sao, họ đều là con người, sẽ thông cảm cho chúng mình.
- Anh rất muốn, nhưng…
- Thôi, không nhưng gì hết.

Giời ơi!... Còn ai trên đời hạnh phúc như hắn. Tôi nhắm nghiền mắt mà như nhìn thấy rõ hắn và nàng cùng trút bỏ áo quần, lội ra dòng sông loáng bạc. Họ ôm nhau, kỳ cọ thân thể cho nhau rồi… hắn bế thốc nàng lên bờ làm cái chuyện ấy giữa trời mây sông nước bao la…

6- Mấy chục năm qua đi, giờ tôi mới gặp lại nàng. Nàng vẫn nguyên vẹn dáng vẻ kiều diễm, cao sang như buổi nào bước ra khỏi máy bay trực thăng. Hình như chỉ tôi với hắn là già và xấu đi, còn nàng cứ trẻ và đẹp mãi. Nàng như Phật bà quan âm tái thế, tài trợ cho phòng trưng bày tranh của hắn. Nàng đang từ cõi niết bàn bước ra đọc lời khai mạc phòng tranh trong ánh mắt ngạc nhiên của bạn bè và công chúng yêu hội họa. Chỉ mình tôi biết được chàng trai lịch sự, tuấn tú đứng bên cạnh nàng là con của hắn. Chỉ mình tôi biết được vì sao hắn vẽ tranh toàn V và L, ngoài cái triết mỹ hắn gửi gắm vào tranh còn vì một lẽ khác. Cuối buổi khai mạc phòng tranh, hắn và nàng dắt con trai lại chào tôi, hẹn sẽ đến ăn bữa cơm thuần túy Việt Nam. Hắn bảo, đừng bày vẽ gì, cứ trải chiếu ngoài sân, dưới gốc cây hoàng lan, đãi nhau món đậu phụ chấm mắm tôm ăn với bún là tuyệt nhất. Tôi chưa quen với mùi mắm tôm, nhưng sẽ thử cùng hắn và nàng nếm cái vị của nó. Có lẽ hắn đúng, giữa mùi và vị thì vị mới chính là tinh cốt của đời.

Hà Nội 7/2005
V.N.T.