Thứ Năm, 10 tháng 12, 2009

BỌN CHÓ ÐẺ & Bè Lũ


BỌN CHÓ ÐẺ .

Nầy ông Chu Tất Tiến
Máu tôi nóng lắm rồi
Tôi không được như ông :
-Ân cần và từ tốn .

Ðối với bọn cà chớn
Bất kể con cái ai
Không cần phải nể nang
Cứ bốp thẳng mặt chúng .

Những con ranh con lộn
Ðã tanh banh tành bành
Người ngợm được bón thúc
Máu Việt gian lưu manh .

Những thằng lỏi hôi tanh
Ðược bú , mớm "chém vè"
Nhử mồi từ du sinh
"Con,cháu" lão Hồ dê .

Phủi công ơn sinh , dưỡng
Ẩm bế vượt đại dương .
Phủi lòng người độ lượng
Cứu vớt và cưu mang .

Ở đất nước Hoa-kỳ
Thừa mứa đâm trửng mỡ .
Thử về ở Việt -nam
Hết ham liếm đít chó .

Cái lưỡi trước khi nói
Nên uốn lưỡi bảy lần
Ðừng bắt chước lẹo lưỡi
Láu táu mà hư thân .

Cây nào không gốc rễ ?
Nước nào không cội nguồn ?
Người phải có lương tri
Ðừng lấc cấc , láo xược .

Người không có liêm sỉ :
- Không phải là con người .
Ðã không phải là người :
-Vậy đúng là chó đẻ .

Bọn chó đẻ hai chân :
- Quái thai của thời đại ./-


Lê Văn Kỳ
Hawaii 2009
.

Thứ Tư, 9 tháng 12, 2009

Một phóng sự quá buồn ... quá xót xa ...

Chẳng có lời lẽ nào để có thể biện hộ và thông cảm cho họ -những con người đã lợi dung những sinh linh kia để kiếm ăn .. uất phát khóc mất



Khi Sân Khấu Trống Đồng (q.3, Tp.hcm) Lên Đèn, Một Đường Dây Chăn Dắt Trẻ Ăn Xin Bắt Đầu Triển Khai Hoạt Động Có Tổ Chức Hẳn Hoi. Ngoài Những Đứa Trẻ Ăn Xin Dưới Sự Chỉ Đạo Của Những Kẻ Chăn Dắt Chuyên Nghiệp, Còn Có Những Em Bé Chừng 2-3 Tuổi Bị Ép Buộc Nằm Trần Truồng Lê Lết Trên Đất




Khi một em bé ngọ nguậy, lững chững rời khỏi hiện trường “làm ăn”, ngay lập tức bị một thiếu niên áp sát lôi về, bắt diễn tiếp

Thỉnh thoảng, một em khác lớn hơn được cử tới đánh bôm bốp cho những đứa trẻ này khóc thét lên để tăng phần thương cảm cho người đi đường, người xem ca nhạc. TP.HCM những ngày này mưa gió lạnh lẽo, những em bé tội nghiệp ấy vẫn phải “hành nghề” vật vã trên tấm bìa giấy sũng nước...



Một em gái (gọi là C.) bị nhóm người lớn chăn dắt cử “chăm sóc” mấy em nhỏ với nhiệm vụ: ép những em nhỏ nằm xuống, đánh cho khóc thét lên và kiểm tra tiền khách cho dưới sự quan sát của những kẻ chăn dắt

Xem tấm ảnh này mà bật khóc .. nhìn đứa trẻ nằm trần truồng ..lạnh lẽo ...





Nhóm chăn dắt trẻ chia chác tiền kiếm được từ thân xác trẻ thơ ngay trên vỉa hè khu vực “làm ăn”

Những kẻ chăn dắt này gồm hai phụ nữ (gọi nhau là H., P.) và một số thanh niên ngồi thảnh thơi gần đó nhưng không rời mắt những em nhỏ trong vở diễn mà họ dựng nên.

Ai sẽ ngăn chặn, dẹp bỏ vở diễn phi nhân tính này?

Chăn dắt người già

Không chỉ trẻ thơ bị chăn dắt, ở TP.HCM nhiều cụ ông, cụ bà ốm yếu, bệnh tật cũng bị những nhóm người bất lương chăn dắt đi ăn xin, bán vé số... Những kẻ chăn dắt này lợi dụng tuổi “xế chiều” già yếu của các cụ cùng sự thương hại của người đi đường mà trục lợi.



Một cụ già thuộc đường dây ông C. (Thanh Hóa) nhận tiền bố thí của người qua đường trên cầu Ông Lớn (đại lộ Nguyễn Văn Linh, Q.7). Khi chúng tôi hỏi chuyện, cụ hoảng sợ dùng nón che mặt


Sau khi bán vé số ở quán nhậu trên đường Điện Biên Phủ đoạn quận 3, một bà cụ run rẩy đưa tiền cho người đàn ông đẩy xe để đi bán tiếp. Người đàn ông này thuộc đường dây ông C.. (Phú Yên) trên đường Nguyễn Đình Chiểu (quận 3)


Xe đẩy một cụ bà bán vé số qua nơi những kẻ chăn dắt tranh thủ ăn nhậu (bìa phải), chờ các cụ bán xong thu tiền


Hai người đàn ông ngồi vắt vẻo phía ngoài một quán nhậu ở quận 3 chờ các cụ bán xong để thu tiền

Hơn 25 cụ già độ tuổi 63-82 (hầu hết quê ở Tuy An, Phú Yên) tại một tụ điểm trong con hẻm đường Phạm Văn Hai (P.5, Q.Tân Bình). Mỗi ngày các cụ ngồi xe lăn rong ruổi khắp hang cùng ngõ hẻm bán vé số từ 17g đến 1g-2g sáng mới trở về nhà. Đây là đường dây do ông chủ tên H. (Phú Yên) chăn đắt. Trong ảnh: các cụ ngồi chờ chủ phát vé số để đi bán


...Và bữa cơm cực kỳ đạm bạc của những người già bán vé số

Hình ảnh hàng chục ông cụ, bà cụ 70-80 tuổi lụ khụ ngồi lọt thỏm trong những chiếc xe lăn, trên tay là những xấp vé số, đằng sau họ là những người khỏe mạnh đẩy xe hoặc hình ảnh các cụ ngồi co ro, run rẩy bên lề đường ăn xin xuất hiện ở nhiều tuyến đường, cây cầu trên địa bàn TP.HCM... Mấy ngày qua, Sài Gòn trở lạnh, các cụ vẫn phải lê lết thân già dưới sương đêm, trong những đợt gió rét lạnh trên đường...

PV Tuổi Trẻ đã lần theo ba đường dây chăn dắt người già tại Sài Gòn. Đường dây chăn dắt người già đi ăn xin do tên C. (quê ở Quảng Lưu, Quảng Xương, Thanh Hóa) cầm đầu. Cứ khoảng 20g, C. lại chở các cụ ông, cụ bà trên 70 tuổi tới các cây cầu Ông Lớn, Ông Bé... trên đại lộ Nguyễn Văn Linh (Q.7) để “hành nghề” ăn xin.


Suốt quá trình các cụ ngồi co ro xin tiền trên cầu, C. luôn di chuyển một cách bí mật để giám sát. Cứ khoảng vài giờ, C. lại chở các cụ thay đổi địa điểm từ cây cầu này qua cây cầu khác.... Đến khoảng 0g, C. đảo xe một vòng đón các cụ về phòng trọ tại khu trọ gần sân bóng đá Kim Sơn (ấp 4, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh).

Tương tự, đường dây chăn dắt người già yếu đi bán vé số do một người đàn ông cũng tên C., quê ở Phú Yên tổ chức.. C. thường về Phú Yên gom các cụ già yếu tại địa phương có hoàn cảnh khó khăn, neo đơn vào TP.HCM dẫn đi bán vé số. C. thuê một dãy phòng trọ trên đường Nguyễn Đình Chiểu (Q.3) làm nơi trú ngụ và điều phối hoạt động của các cụ già.

Một cụ ông trong nhóm cho biết: “Tụi tui già yếu rồi không làm được gì ở quê nữa, anh C. dẫn vào đây bán vé số. Cứ bán xong phải giao tiền ngay và vé số thừa cho chủ. Mỗi tháng chủ trả khoảng 1 triệu đồng”.

Nước mắt tuổi xế chiều

Đằng sau hình ảnh những cụ già gầy yếu ngồi co ro ăn xin bên lề đường hoặc ngồi lọt thỏm trong chiếc xe đẩy, lê lết khắp hang cùng ngõ hẻm bán vé số... là một hệ thống chân rết của những kẻ chăn dắt ăn bám người già.


Lưng còng sát đất nhưng đêm đêm các cụ phải bán vé số đến khuya mới được về nghỉ ngơi - Ảnh: Đ.D.

20g.. Đây là lúc “ông chủ” tên C. (quê Thanh Hóa) “áp giải” các ông lão, bà lão “cái bang” từ một khu nhà trọ ở ấp 4, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, TP.HCM ra các ngả đường “hành nghề” ăn xin. Tập trung chủ yếu ở đường Nguyễn Văn Linh, Q.7, TP.HCM.


Vắt kiệt tuổi già


Từ thời gian này đến quá nửa đêm, nhiệm vụ của những cụ ông, cụ bà 70-80 tuổi là phải ngồi trên đường để xin tiền. Rất nhiều người đi đường thấy những hình ảnh thương tâm này đã bỏ tiền vào chiếc nón trên những đôi tay gầy gò, run rẩy của các cụ. Không ai có thể ngờ phía sau các cụ, từ trong một góc tối gần đó, C. ngồi trên xe rung đùi quan sát và nhẩm tính số tiền sẽ thu được.
Đến khoảng 22g, C. bắt đầu xuất hiện, vòng xe một lượt rồi chở một số cụ “hoán đổi” địa điểm ngồi xin tiền. 24g đêm, C. vòng xe chạy ngược chiều đại lộ Nguyễn Văn Linh dồn các cụ lên xe gắn máy chở về phòng trọ.


“Đại bản doanh” của đường dây cái bang người cao tuổi này là căn nhà trọ xập xệ mà các cụ chen chúc nhau ngả lưng mỗi đêm. Số tiền xin được của người đi đường, các cụ đều phải nộp cho C. để đổi lấy những bữa ăn qua ngày. “Cơ sở” cái bang này tồn tại đã lâu, thỉnh thoảng C. lại về Thanh Hóa “tuyển” thêm các cụ có hoàn cảnh neo đơn, khó khăn để đưa vào TP.HCM.


Đã quá nửa đêm, cụ bà trên 70 tuổi này vẫn ngồi co ro giữa gió lạnh, sương đêm để ăn xin, phía sau cụ già là những người chăn dắt vẫn dõi theo (ảnh chụp lúc 22g ngày 19-11) - Ảnh: Đ.T.

Giọt mồ hôi cuối đời

”Đổ oan cho tôi tiếng xấu”
“Ông chủ” H. khoe: “Những cụ già ở đây với tôi đều là những người bị gạt ra rìa vì đã mất sức lao động. Tôi tập hợp các cụ lại, đại diện thuê phòng, tiền vốn mua vé số từ đại lý phát cho các cụ hằng ngày đi bán là do tôi mượn từ ngân hàng đấy!? Tôi vất vả lo cho các cụ cơm ăn hai bữa, đồng vốn, chốn ở... Thế mà nhiều người lại đổ oan cho tôi tiếng xấu là lười biếng lao động, ăn bám vào người già. Tôi từng bị đánh no đòn bởi những người mua vé số phát hiện tôi đứng từ xa chờ các cụ ra để tiếp tục đẩy đi chỗ khác bán...”.


Tụ điểm chăn dắt người già của “ông chủ” N.N.H., quê Phú Yên, ở đường Phạm Văn Hai, phường 5, Q.Tân Bình. Đường dây này đã tồn tại hơn hai năm nay với hàng chục ông cụ, bà cụ già yếu chuyên đi bán vé số phục vụ “ông chủ”.


Sau nhiều lần thay đổi địa điểm, hiện H. đưa các cụ tới một căn nhà trọ nằm sâu trong con hẻm trên đường Phạm Văn Hai. Nơi đây, gần 30 cụ già ốm yếu từ 60-80 tuổi cùng nhiều người khỏe mạnh đẩy xe cho các cụ chen chúc nhau ở trong một gian nhà trọ chật hẹp. Những tháng cao điểm “làm ăn” tại đây có gần 60 cụ.


Phương thức hoạt động của đường dây này là một số người khỏe mạnh đẩy xe cho các cụ già đi bán vé số. “Ông chủ” và những người này ăn chia nhau số tiền lời thu được từ việc bán vé số của các cụ già.


Cụ bà Đ.T.Y., 72 tuổi, vừa ngồi bóp chân vừa đếm lại xấp vé số để bắt đầu một ngày rong ruổi khắp hang cùng ngõ hẻm, kể: “Mỗi ngày tui đi bán từ 5g chiều đến 1-2g sáng thì về. Cách ăn chia với chủ là nếu bán được 100 vé số loại 10.000 đồng/vé, tiền lời là 100.000 đồng thì chủ lấy 30.000 đồng, tui còn 70.000 đồng. Trừ chi phí cho người đẩy xe, tiền lời còn lại sau một ngày rong ruổi khoảng 20.000-30.000 đồng”.

Ở Phú Yên, cụ Đ.T.Y. cũng có con cháu nhưng: “Thấy tụi nó nghèo khó quá tui ngồi không không đành. Nghe trong xóm có nhiều người theo chú H. vào Sài Gòn bán vé số cũng kiếm được đồng một đồng hai sống qua ngày, tui cũng xin theo. Tui tính đợt này nghỉ vì không đi nổi nữa nhưng nhà cửa của con cháu ngoài quê tan tành theo bão lũ nên tôi nuốt nước mắt đi bán tiếp để tự nuôi thân” - cụ Y. vuốt những giọt nước mắt trên hai gò má già nua, tâm sự.


Nỗi ảm ảnh lớn nhất của các cụ già tại đây là những tên lưu manh giật vé số. Hầu như ngày nào cũng có cụ bị trường hợp này. Mặc dù có “ăn chia” và mấy vòng giám sát của “ông chủ” cùng người đẩy xe nhưng khi mất vé số thì chỉ có các cụ phải chịu bồi thường. Sau những lần bị giật vé, số nợ của các cụ với H.. lại tăng. Thậm chí theo chính lời của H., có những cụ già đến chết vẫn còn mắc nợ tiền vé số của anh ta.


“Ở cái tuổi 70-80 của tụi tui chắc cũng không sống được bao lâu nữa. Chắc những giọt mồ hôi, nước mắt này là những giọt mồ hôi, nước mắt cuối đời. Tụi tui biết mình bị ăn chặn đầu này đầu kia nhưng cũng đành vì ít ra mình cũng còn lại chút đỉnh đủ để nuôi thân” - một bà cụ nghẹn ngào.

Chân dung những “ông chủ”


Trên 25 cụ già trong đường dây của N..N.H. ngồi chờ ”chủ” phát vé số để đi bán - Ảnh: Đ.D.


Theo tìm hiểu của chúng tôi, trên địa bàn TP.HCM hiện có hàng chục đường dây chuyên chăn dắt người già đi ăn xin và mua bán vé số dạng này. Có đường dây 5-10 cụ nhưng cũng có nơi tập trung đến 40-50 cụ. Mỗi đường dây đều do một “ông chủ” quản lý.. Các “ông chủ” như H., C., M., T..... hầu hết ở lứa tuổi 30-40, có người xuất thân cũng từ dân bán vé số dạo hoặc người từng sống lang thang khắp nơi, cũng có người từng là “phụ tá”, giúp việc cho các “ông chủ” khác rồi sau đó ra “hành nghề” riêng.


Chiêu thức chung của các “ông chủ” này thường là lợi dụng những người già neo đơn, cuộc sống khó khăn là dân đồng hương của họ ở các vùng Phú Yên, Tuy Hòa, Quảng Ngãi, Thanh Hóa... cả tin vào người cùng quê để chiêu dụ vào Sài Gòn bán vé số, ăn xin sẽ được bao ăn ở và cho một số tiền phòng thân, gửi về cho con cháu ở nhà.


Sau đó, những cụ già này sẽ được gom về tập trung ở những căn phòng trọ và ứng vốn cho đi bán vé số, tiền lãi sẽ nộp lại cho “ông chủ”, tỉ lệ ăn chia tùy theo “chủ” quyết định. Khắc nghiệt hơn, những cụ già trong các đường dây ăn xin thường được “tuyển” từ người già cô độc, có hoàn cảnh khó khăn nhất mà nếu không phục vụ cho “ông chủ” thì sẽ không có khoản thu nhập nào để sinh sống. Những người già này phải nộp hoàn toàn tiền ăn xin cho “chủ” chỉ để đổi bữa ăn qua ngày.
Mỗi năm, các “ông chủ” thường về quê 2-3 lần để “tuyển” người già vào đường dây chăn dắt của mình. Cá biệt như M. ở Tân Bình, C. ở quận 5... còn đưa cả cha mẹ ruột của mình đi ăn xin. Để đề phòng các cơ quan chức năng kiểm tra, xử lý, nhiều đường dây còn đề nghị các cụ ông, cụ bà làm tờ cam kết, giấy xác nhận “tự nguyện” đi ăn xin, bán vé số cho các nhóm.

Mẹ Nấm: - NHÂN QUYỀN - LIỆU CÓ LÀ GIẤC MƠ??

TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN
(1948)
LỜI MỞ ĐẦU



Xét rằng việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới,

Xét rằng việc coi thường và khinh miệt nhân quyền đã đưa tới những hành động dã man làm phẫn nộ lương tâm nhân loại, và việc đạt tới một thế giới trong đó mọi người được tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, đượïc giải thoát khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, được tuyên xưng là nguyện vọng cao cả nhất của con người,

Xét rằng điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ pháp trị bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền,

Xét rằng điều cốt yếu là phải phát triển những tương quan hữu nghị giữa các quốc gia,

Xét rằng, trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, các dân tộc đã tái xác nhận niềm tin vào những nhân quyền căn bản, vào phẩm cách và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng nam nữ, cùng quyết tâm thúc đẩy tiến bộ xã hội và nâng cao mức sống trong một môi trường tự do hơn,

Xét rằng các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc để phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản,

Xét rằng một quan niệm chung về tự do và nhân quyền là điều tối quan trọng để thực hiện trọn vẹn cam kết ấy.
Vì vậy,
ĐẠI HỘI ĐỒNG LIÊN HIỆP QUỐC
Công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như một tiêu chuẩn thực hiện chung cho tất cả các dân tộc và quốc gia, sao cho mỗi cá nhân và đoàn thể xã hội luôn nhớ tới bản tuyên ngôn này, nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này bằng học vấn và giáo dục, và bằng những biện pháp lũy tiến trên bình diện quốc gia và quốc tế, bảo đảm sự thừa nhận và thực thi trên toàn cầu các quyền tự do này cho các dân tộc thuộc các quốc gia hội viên hay thuộc các lãnh thỗ bị giám hộ.

Điều 1: Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái.

Điều 2: Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác.

Ngoài ra không được phân biệt về quy chế chính trị, pháp lý hay quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ mà người đó trực thuộc, dù là nước độc lập, bị giám hộ, mất chủ quyền hay bị hạn chế chủ quyền.

Điều 3: Ai cũng có quyền được sống, tự do, và an toàn thân thể.

Điều 4: Không ai có thể bị bắt làm nô lệ hay nô dịch; chế độ nô lệ và sự mua bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị cấm chỉ

Điều 5: Không ai có thể bị tra tấn hay bị những hình phạt hoặc những đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp nhân phẩm.

Điều 6: Ai cũng có quyền được công nhận là con người trước pháp luật bất cứ tại đâu.

Điều 7: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Mọi người đều được bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi giục kỳ thị trái với Tuyên Ngôn này.

Điều 8: Ai cũng có quyền yêu cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại những hành động vi phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận.

Điều 9: Không ai có thể bị bắt giữ, giam cầm hay lưu đầy một cách độc đoán.

Điều 10: Ai cũng có quyền, trên căn bản hoàn toàn bình đẳng, được một toà án độc lập và vô tư xét xử một cách công khai và công bằng để phán xử về những quyền lợi và nghiã vụ của mình, hay về những tội trạng hình sự mà mình bị cáo buộc.

Điều 11:

1) Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ.

2) Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành; mà cũng không bị tuyên phạt một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian phạm pháp.

Điều 12: Không ai có thể bị xâm phạm một cách độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hay bị xúc phạm đến danh dự hay thanh danh. Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy.

Điều 13: 1) Ai cũng có quyền tự do đi lại và cư trú trong quản hạt quốc gia.

2) Ai cũng có quyền rời khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả quốc gia của mình, và có quyền hồi hương.

Điều 14: 1) Khi bị đàn áp, ai cũng có quyền tìm nơi tị nạn và được hưởng quyền tị nạn tại các quốc gia khác.

2) Quyền này không được viện dẫn trong trường hợp sự truy tố thực sự chỉ căn cứ vào những tội trạng không có tính cách chính trị hay vào những hành động trái với mục đích và tôn chỉ của Liên Hiệp Quốc.

Điều 15: 1) Ai cũng có quyền có quốc tịch.

2) Không ai có thể bị tước quốc tịch hay tước quyền thay đổi quốc tịch một cách độc đoán.

Điều 16: 1) Đến tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền kết hôn và lập gia đình mà không bị ngăn cấm vì lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Họ có quyền bình đẳng khi kết hôn, trong thời gian hôn thú cũng như khi ly hôn.

2) Hôn thú chỉ có giá trị nếu có sự thuận tình hoàn toàn tự do của những người kết hôn.

3) Gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và phải được xã hội và quốc gia bảo vệ.

Điều 17: 1) Ai cũng có quyền sở hữu, hoặc riêng tư hoặc hùn hiệp với người khác.

2) Không ai có thể bị tước đoạt tài sản một cách độc đoán.

Điều 18: Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.

Điều 19: Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.

Điều 20: 1) Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội có tính cách hoà bình.

2) Không ai bị bắt buộc phải gia nhập một hội đoàn.

Điều 21: 1) Ai cũng có quyền tham gia chính quyền của quốc gia mình, hoặc trực tiếp hoặc qua các đại biểu do mình tự do lựa chọn.

2) Ai cũng có quyền bình đẳng tham gia công vụ trong nước.

3) Ý nguyện của quốc dân phải được coi là căn bản của mọi quyền lực quốc gia; ý nguyện này phải được biểu lộ qua những cuộc tuyển cử có định kỳ và trung thực, theo phương thức phổ thông đầu phiếu kín, hay theo các thủ tục tuyển cử tự do tương tự.

Điều 22: Với tư cách là một thành viên của xã hội, ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội, cũng như có quyền đòi được hưởng những quyền kinh tế, xã hội và văn hoá cần thiết cho nhân phẩm và sự tự do phát huy cá tính của mình, nhờ những nỗ lực quốc gia, sự hợp tác quốc tế, và theo cách tổ chức cùng tài nguyên của quốc gia.

Điều 23: 1) Ai cũng có quyền được làm việc, được tự do lựa chọn việc làm, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi và được bảo vệ chống thất nghiệp.

2) Cùng làm việc ngang nhau, mọi người được trả lương ngang nhau, không phân biệt đối xử.

3) Người làm việc được trả lương tương xứng và công bằng, đủ để bảo đảm cho bản thân và gia đình một đời sống xứng đáng với nhân phẩm, và nếu cần, sẽ được bổ sung bằng những biện pháp bảo trợ xã hội khác.

4) Ai cũng có quyền thành lập nghiệp đoàn hay gia nhập nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.

Điều 24: Ai cũng có quyền nghỉ ngơi và giải trí, được hưởng sự hạn định hợp lý số giờ làm việc và những ngày nghĩ định kỳ có trả lương.

Điều 25: 1) Ai cũng có quyền được hưởng một mức sống khả quan về phương diện sức khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình kể cả thức ăn, quần áo, nhà ở, y tế và những dịch vụ cần thiết; ai cũng có quyền được hưởng an sinh xã hội trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, tật nguyền, góa bụa, già yếu, hay thiếu phương kế sinh nhai do những hoàn cảnh ngoài ý muốn.

2) Sản phụ và trẻ em được đặc biệt săn sóc và giúp đỡ. Tất cả các con, dầu là chính thức hay ngoại hôn, đều được hưởng bảo trợ xã hội như nhau.

Điều 26: 1) Ai cũng có quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí ít nhất ở cấp sơ đẳng và căn bản. Giáo dục sơ đẳng có tính cách cưỡng bách. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được phổ cập. Giáo dục cao đẳng phải được phổ cập cho mọi sinh viên trên căn bản bình đẳng, lấy thành tích làm tiêu chuẩn.

2) Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản; phải đề cao sự thông cảm, bao dung và hữu nghị giữa các quốc gia, các cộng đồng sắc tộc hay tôn giáo, đồng thời yểm trợ những hoạt động của Liên Hiệp Quốc trong việc duy trì hoà bình.

3) Cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn giáo dục cho các con.

Điều 27: 1) Ai cũng có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, thưởng ngoạn nghệ thuật, được hưởng các tiến bộ khoa học và lợi ích của những tiến bộ ấy.

2) Ai cũng được bảo vệ bởi những quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ những sản phẩm khoa học, văn học hay nghệ thuật của mình.

Điều 28: Ai cũng có quyền được hưởng một trật tự xã hội và trật tự quốc tế trong đó những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này có thể được thực hiện đầy đủ.

Điều 29: 1) Ai cũng có nghiã vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ.

2) Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn.

3) Trong mọi trường hợp, những quyền tự do này không thể hành xử trái với những mục tiêu và tôn chỉ của Liên Hiệp Quốc.

Điều 30: Không một điều khoản nào trong Tuyên Ngôn này có thể giải thích để cho phép một quốc gia, một đoàn thể, hay một cá nhân nào được quyền hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu hủy những quyền tự do liệt kê trong Tuyên Ngôn này.

PHỤ ĐÍNH 1: CÁC ĐIỀU KHOẢN NHÂN QUYỀN TRONG HIẾN CHƯƠNG LIÊN HIỆP QUỐC (1945)
Điều 1
Những mục tiêu của Liên Hiệp Quốc là:

1. Duy trì hòa bình và an ninh thế giới. 2. Phát triển tương quan hữu nghị giữa các quốc gia đặt căn bản trên sự tôn trọng nguyên tắc bình đẳng quyền lợi và quyền dân tộc tự quyết, cùng thi hành mọi biện pháp thích nghi để củng cố hòa bình thế giới. 3. Đạt tới sự hợp tác quốc tế nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá, hay nhân đạo, và phát huy, khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo.

Điều 55
Nhằm mục đích đạt được những điều kiện về ổn định và phúc lợi cần thiết cho việc thiết lập những tương quan hòa bình và hữu nghị giữa các quốc gia đặt căn bản trên sự bình đẳng quyền lợi và quyền dân tộc tự quyết, Liên Hiệp Quốc đề xướng thực thi:

a. Một mức sống cao hơn, sự toàn dụng nhân công và tạo những điều kiện tiến bộ và phát triển về kinh tế xã hội b. Tìm kiếm những giải pháp cho những vấn đề kinh tế xã hội và văn hóa, thực thi sự hợp tác quốc tế về văn hóa và giáo dục, và c. Tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo.

Điều 56
Các Quốc Gia Hội Viên cam kết, bằng những hành động riêng rẽ hay phối hợp, sẽ cộng tác với Liên Hiệp Quốc trong việc thực hiện những mục tiêu ghi trong điều 55 nói trên.

theo bản dịch của Trung Tâm Việt Nam Về Nhân Quyền, với sự tu chính của Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Nhân Quyền

------------ --------- --------------------------------------------------------------------------


Còn nhớ lần đầu tiên được đọc trọn vẹn bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền là vào khoảng 1999, thời mà Internet dial-up còn chạy rì rì, và mình thì mỗi tuần để dành tiền lóc cóc ra bưu điện tỉnh để xài cho 1-2 tiếng. Mình đã từng tin "nhân quyền" là cái mình sở hữu, cho đến khi mình đọc
được trọn vẹn bản tuyên ngôn trên. Mình đã từng tin là không có khoảng cách, hay không có sự khác biệt nào về "nhân quyền" ở đất nước mình đang sống và những nước khác. Mình đã từng tin rằng "nhân quyền" - "quyền của con người" - ước mơ lớn nhất của cả nhân loại, là chuẩn mực chung cho cả thế giới chứ không phải của riêng bất kỳ một quốc gia hay dân tộc nào. Mình đã từng tin như thế, cho đến ngày mình chứng kiến nhiều người bị bắt, bị tạm giữ, bị làm khó dễ vì "lợi dụng các quyền tự do dân chủ".

Đau đớn nhưng có thật, những gì đã xảy ra với những người đi trước, những tấm lòng, những ý chí muốn thay đổi đất nước, muốn trả lại hào khí Diên Hồng cho dân Việt kiêu hùng, muốn con em mình được ngẩng mặt với thế giới, đã buộc mình phải thừa nhận trong xót xa rằng : quyền của con người ở nơi mình đang sống không được tôn trọng một cách triệt để. Làm thế nào để xã hội phát triển một cách toàn diện khi nhân tố quan trọng nhất là con người lại không được chú tâm??

"Nhân quyền" hình như chỉ là mỹ từ trên các văn bản ký kết, và được xem như một thứ trang sức để đánh bóng trên bàn hội nghị. Nói cách này hay cách khác, thì nhân quyền cũng giống như quả bóng được chuyền giữa chân nhiều người có trách nhiệm với đất nước hòng đạt được mục đích hoặc thỏa mãn được yêu cầu trước mỗi sự kiện lớn. Mình nhớ có nhiều người đã từng than vãn: "Mạng con người sao mà rẻ rúng?" . Làm sao không rẻ rúng được, khi chính mỗi người không ý thức
được quyền căn bản của mình? Làm sao không rẻ rúng được khi chính mình tự xem nhân quyền là giấc mơ xa xỉ?? Dường như nhiều người quên rằng, một khi có mặt trên quả đất này, mọi người đều mặc nhiên có những quyền căn bản - và những quyền đó là đương nhiên phải có chứ không phải là một ân huệ của ai khác ban cho.

Ngày mai, ngày khiến mình luôn liên tưởng lời một người không ngừng nghỉ đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền, ông Elie Wiesel, người đoạt giải Nobel Hoà bình năm 1986 :

« Tôi thề sẽ không bao giờ im tiếng, nếu ở đâu và khi nào con người còn bị đau khổ, hành hạ, đọa đày. Chúng ta phải nhập cuộc. Trung lập chỉ có lợi cho kẻ đàn áp. Im lặng là khuyến khích kẻ áp bức. Do đó chúng ta phải can thiệp. Khi đời sống con người bị đe dọa, phẩm giá con người bị chà đạp, các biên thùy quốc gia không còn quan trọng nữa. Nơi nào con người bị hành hạ vì lý do tôn giáo, chính trị hay chủng tộc, nơi đó lập tức trở thành trung tâm của vũ trụ. Nếu chỉ còn một tù
nhân lương tâm bị giam giữ, quyền tự do của chính chúng ta cũng bị đe dọa. Các nạn nhân này chỉ đòi hỏi một điều là họ biết rằng họ không bị cô đơn, không bị quên lãng ; rằng họ không còn quyền được nói, và chúng ta nói thay họ. Nếu tự do của họ tùy thuộc vào chúng ta, thì ngược lại, tự do của chúng ta cũng tùy thuộc vào số phận của họ."

Ngày mai - ngày Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền, xin được gửi lời cảm ơn và cầu chúc bình an đến tất cả những người đang nỗ lực và phấn đấu vì một thế giới nhân quyền thực sự.

«Dù chỉ còn mình tôi, tôi vẫn tiếp tục đấu tranh cho nhân quyền của tôi và cho dân tộc tôi» - một lời chúc sức khỏe và bình an tặng riêng cho người bạn nữ đồng tuổi với tôi - Lê Thị Công Nhân.
Một lời cầu nguyện bình an và vững vàng cho những người đang trong chốn lao tù vì những nỗ lực của mình.

9/12/2009
mN

HAI NĂM TRÒN.

Chớp mắt mà đã hai năm, ngày 9/12/2007 - 9/12/2009, kỷ niệm ngày học sinh - sinh viên Việt Nam tại Sài Gòn và Hà Nội xuống đường vì Hoàng Sa - Trường Sa thân yêu.

Tôi - đã qua thời sinh viên tràn đầy sức sống đó, nhưng cái cảm giác sục sôi đợi tin, xem hình các bạn biểu tình vào năm 2007 vẫn còn mãi trong lòng.

Có bài học giáo dục lòng yêu nước nào sâu sắc và chân thành và dễ dàng đi vào lòng chúng tôi - những nam, nữ thanh niên tuổi 30 - hơn những ngày đó?

Không hẹn mà gặp, tuổi trẻ đầy nhiệt huyết là như thế. Yêu nước là bản năng của người Việt, và các bạn học sinh - sinh viên trong cuộc biểu tình vì Hoàng Sa - Trường Sa ngày 9/12/2007 đã nhắc nhở tôi luôn nhớ về điều này.

Vậy là đã 2 năm qua đi, nhiều người trong số những bạn trẻ xuống đường đã bị buộc thôi học, nhiều ngã đường tương lai đã bị chặn, bởi vì các bạn đã nói, đã làm, đã bày tỏ tình yêu thiêng liêng đối với đất nước mình. Hẳn là đau đớn và xót xa khi đến tận bây giờ nhiều người vẫn trăn trở hoài với câu hỏi: "Tại sao lại như vậy?" "Sao mình lại bị đối xử như vậy?".

Chính sự né tránh và vòng vo trong những câu trả lời tại Nhà Văn Hóa Thanh Niên năm 2007 của những người có trách nhiệm đã khiến tôi và những người trẻ như tôi phải tìm kiếm thông tin và chọn một con đường để bày tỏ tình yêu đất nước "ôn hòa" nhất.

Tôi sẽ còn nhớ mãi cái cảm giác ấm áp và đầy tự hào khi khoác lên mình chiếc áo có dòng chữ "Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam" ngay túi trái. Tôi còn nhớ lòng mình đã vững tin biết bao khi nhìn thấy hình ảnh một bà mẹ già Việt Nam tay cầm biểu ngữ vì Hoàng Sa trong gió, hình ảnh những em bé theo cha mẹ xuống đường vì Trường Sa.

Tôi đã từng tin - bày tỏ lòng yêu nước là quyền và trách nhiệm của tôi.

Tôi đã từng tin - hẳn có người sẽ biết suy nghĩ lại và cảm thấy có lỗi với anh Điếu Cày - blogger đầu tiên bị bắt giữ vì dám công khai bày tỏ quan điểm về chủ quyền biển đảo.

Tôi đã từng tin như thế.

Hai năm sau "ngày vì Hoàng Sa - Trường Sa thân yêu" (xin được đặt tên cho ngày 9/12 hàng năm là thế), nhiều hội thảo, nhiều cuộc thi tìm hiểu về chủ quyền biển đảo đã được tổ chức. Nhưng mấy ai thực sự quan tâm đến ảnh hưởng sâu sắc của nó đối với người tham gia?? Tại sao phải "giáo dục lòng yêu nước" bằng những cuộc thi, những phong trào rầm rộ khiến học sinh mỏi mệt vì phải sao chép đáp án, giáo viên rã rời vì phải chạy theo phong trào?? Tình yêu đất nước không thể nào sinh hoa kết trái từ mảnh đất cằn khô như thế.

Hai năm sau "ngày vì Hoàng Sa - Trường Sa thân yêu", tôi đau đớn nhủ thầm với chính mình rằng: "Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà hãy hỏi ta có quyền làm gì cho Tổ quốc hôm nay?"

8/12/2/2009
Mẹ Nấm

Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2009

Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất

Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất (còn gọi là Đại hội Việt kiều 2009) do CSVN tổ chức đã khai mạc vào ngày 21 tháng 11/2009 và bế mạc vào ngày 23/11/2009. Theo sự phổ biến của Ban Tổ Chức Hội nghị thì có 900 người tham dự dưới danh nghĩa là "đại biểu" từ 52 quốc gia và vùng lãnh thổ, còn họ đại diện cho ai và do ai bầu ra thì chỉ có Trời mới biết, vì ngay đến kẻ hay tò mò chuyện thế sự như bần đạo thì cũng chưa hề biết bất cứ ai trong danh sách những người tham dự là đại biểu hay là đại diện cho ai cả, ngoại trừ cho chính bản thân họ hoặc cho các nhóm Cộng sản nằm vùng ở nước ngoài mà thôi. Xưa nay Cộng sản vẫn nổi tiếng là bọn bịp bợm hay dùng chữ đao to búa lớn, cho nên những điều được cái loa truyền thông nhà nước phát ra thì con voi phải được hiểu là con chuột, hoặc tệ hơn nữa là con rệp!!!



Theo nhà nước CSVN thì trong số 900 "đại biểu" tham dự đại hội lần này có 231 "đại biểu" nữ - chiếm 26%, 669 "đại biểu" nam - chiếm 74%. Số "đại biểu trí thức" là 188 người, "đại biểu doanh nhân" là 428 người - chiếm 49%, tổng số "hội đoàn" về dự là 68. Trong đó "đại biểu" cao tuổi nhất sinh năm 1919 (90 tuổi) đến từ Pháp, "đại biểu" trẻ nhất sinh năm 1985 (24 tuổi) đến từ Đức.

Các nước có đông "đại biểu" tham dự là Mỹ 100 người, Thái Lan 90 người, Pháp 85 người, Đức 70 người. Đặc biệt là có một số "me Mỹ, me Tây", hoặc "rựa Mỹ, rựa Tây" và con cháu của họ về tham dự.


Điều đáng nói là cho đến nay không có một danh sách chính thức nào của những người tham dự được chính quyền cộng sản chính thức công bố cả, đo đó chúng ta có thể tin được rằng có một số trong bọn họ không muốn danh tánh bị tiết lộ, hoặc cộng sản muốn bảo mật tên tuổi những tên đang âm thầm hoạt động nằm vùng tại nước ngoài, vì vậy, không hẳn những tên trong danh sách là tên thật của họ hay chỉ là cái bí danh. Và cũng có thể hiểu rằng một số tên tai to mặt lớn, có học vị hay danh vị ở nước ngoài được nêu tên công khai trên các hệ thống truyền thông như một cái bẫy nhử mồi câu "các con đồng loại hay tương cận" đang còn bước chân trong chân ngoài hay còn e dè sợ bị bịp (chớ không phải vì sợ hay thù ghét chế độ cộng sản tam vô tàn bạo bán nước hại dân).

Sau đây là danh sách những người tham dự đến từ nước ngoài do chúng tôi sưu tầm được, cũng có thể vào giờ chót một vài người trong số họ không có mặt, tuy nhiên đây là danh sách chính xác được nhiều nguồn tin thông thạo tại Việt Nam xác nhận là phù hợp với những gì mà giới truyền thông trong nước được biết, tuy không đầy đủ nhưng cũng cho ta thấy được mặt thật và tầm mức của vấn đề. Những người trong danh sách này là những người có hợp tác với chính quyền CSVN về nhiều mặt, là cán bộ cộng sản nằm vùng tại nước ngoài, hoặc những cảm tình viên của phong trào cộng sản quốc tế, hoặc họ là những thành phần thường đi về Việt Nam, bọn thời cơ trục lợi, chứa chấp các phái đoàn cộng sản ở nước ngoài, và thường lui tới các lãnh sự quán Việt cộng ở nước ngoài. Cũng có vài người được mời về tham dự, đi thử cho biết!!!... Cũng có những người đã về ở hẳn bên Việt Nam như nhạc sĩ Phạm Duy, hoặc vợ chồng ông Nguyễn Cao Kỳ... thì dù có tên họ trong danh sách này hay không thì cũng không thành vấn đề nữa, vì mọi sự đã được công khai từ lâu không còn giấu diếm được ai cả.

KDĐN - DIỄN ĐÀN ÁI HỮU NINH THUẬN

DANH SÁCH VIỆT KIỀU THAM DỰ HỘI NGHỊ NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI TỔ CHỨC TẠI VN NĂM 2009

1- Nữ "khoa học gia" Nguyễn Thị Quý là chuyên gia về tế bào học tại Úc.
2- Ông Vũ Mạnh Huỳnh, Việt kiều Mỹ, làm việc trong ngành sinh hoá.
3- Thạc sỹ Lizbeth Nguyễn, làm việc tại tập đoàn sinh hoá BiogenIdec, Việt kiều Mỹ.
4- Tiến sĩ Nguyễn Quốc Bình, Việt kiều Canada – Phó Giám đốc Trung tâm Công nghệ sinh học Sài Gòn.
5- Tiến sĩ Nguyễn Trọng Bình, Việt kiều Mỹ – Khoa học gia ngành Sinh vật phân tử và công nghệ.
6- Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Lương Dũng, Việt kiều Đức, Cán bộ giảng dạy Đại học Bách khoa Sài Gòn.
7- Tiến sĩ Nguyễn Trí Dũng, Việt kiều Nhật, Giám đốc Cty NICD – Minh Trân.
8- Họa sĩ Lê Bá Đảng, Việt kiều Pháp.
9- Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Quý Đạo, Việt kiều Pháp.
10- Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo, Việt kiều Pháp.
11- Bác sĩ Bùi Minh Đức, Việt kiều Mỹ.
12- Tiến sĩ Lê Phước Hùng, Việt kiều Mỹ.
13- Thạc sĩ Phạm Đức Trung Kiên, Việt kiều Mỹ, giám đốc điều hành Quỹ giáo dục Việt Nam của Chính phủ Hoa Kỳ VEF.
14- Giáo sư - Tiến sĩ Đoàn Kim Sơn, Việt kiều Pháp, Đại học Cơ và Kỹ thuật hàng không ENSMA, CH Pháp.
15- Giáo sư Toán học Lê Tự Quốc Thắng, Việt kiều Mỹ – Viện Công nghệ Georgia, Hoa Kỳ.
16- Ông Phan Thành, Chủ tịch HĐQT Hiệp hội doanh nghiệp người VN ở nước ngoài tại Sài Gòn, Việt kiều Canada.
17- Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn, Việt kiều Úc, Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Australia.
18- Tiến sĩ - Nhạc sĩ Nguyễn Lân Tuất, Việt kiều Nga, Chủ nhiệm khoa sáng tác Hàn lâm Viện âm nhạc tỉnh Novosibirs.
19- GS TS Huỳnh Hữu Tuệ, du học tại đại học Laval ở Canada từ năm 1960, chuyên ngành viễn thông và xử lý thông tin. Từ năm 2007, làm Hiệu trưởng Đại học Quốc tế Bắc Hà.
20- Lê Trọng Văn, làm cho BBC tiếng Việt trước 1975, Việt kiều Mỹ.
21- Lê Thiết Hùng trưởng đoàn Việt Kiều Ba Lan.
22- Hoàng Văn Vinh, Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Ekaterinburg (Nga).
23- TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chánh ngân hàng từ hơn ba mươi năm qua, nguyên sáng lập viên ngân hàng First Vietnamese American Bank tại California, Hoa Kỳ.
24- Ông Nguyễn Chánh Khê, Việt kiều Mỹ.
25- TS. Tô Thanh Bình, Cộng hòa Liên bang Đức.
26- TS. Nguyễn Quốc Vọng, Giáo sư, Trường Khoa học ứng dụng, Đại học RMIT, Melbourne Vic 3001, Úc.
27- Bà Nguyễn Huỳnh Mai, Việt kiều tại Bỉ.
28- Ông Nguyễn Văn Hiền, Chủ tịch HĐQT Trung tâm thương mại Đồng Xuân, Berlin (Đức).
29- Doanh nhân Nguyễn Công Chánh, San Francisco - Mỹ.
30- Bùi Kiến Thành, chuyên gia tài chính, Việt kiều Canada.
31- Đỗ Anh Thư, Việt kiều Mỹ.
32- Calvin Trần, Việt kiều Mỹ
33- Ông Hoàng Văn Vinh - Chủ tịch Hội Người VN tại tỉnh Svetlov, Nga.
34- Ông Tô Quý Phú - Hội Thân hữu Ai Lao tại Pháp.
35- Bác sĩ Hoàng Anh Dũng - Việt kiều Bỉ, chuyên gia ghép thận của BV Erasme thuộc Đại học ULB.
36- Ông Nguyễn Đức Thành - Chủ tịch Hội Người VN ở Anh.
37- Bà Mayer Bùi Thị Thu Minh - Việt kiều Đức.
38- Bà Phạm Thị Dung - Hội Đồng Hương Hải Phòng tại Đức.
39- Ông Tô Quốc Phú - kỹ sư xây dựng tại Pháp.
40- Bác sĩ Việt kiều Bùi Kim Hải - bác sĩ gia đình tại Bỉ.
41- TS. Nguyễn Kiểm Thân, du học tại Thụy Sĩ về ngành quản trị kinh doanh tại Đại học Lausanne, có vợ và 2 người con trai cùng về Việt Nam. Một người tên Nguyễn Thân Hiệp, đang làm cố vấn thuế cho hãng kế toán PricewaterhouseCoopers. Một người tên Nguyễn Thân Hảo, làm thiện nguyện ở Hội An cho Làng Toàn Cầu do bà Le Ly Hayslip sáng lập.
42- Ông Hoàng Văn Khẩn - Việt kiều Thụy Sĩ.
43- Bùi Văn Hòa - Việt kiều Nga, Chủ tịch Tập đoàn Mekong Group.
44- Anh Rossi Edouard - thành viên Hội Thân hữu Ai Lao tại Pháp.
45- Souab Djamilam (tên Việt Nam là Xinh - mẹ Việt, bố Algeria), Việt kiều ở Algeria, Giám đốc Petro Việt Nam tại Algeria.
46- Mihoubi Yamina, Việt kiều Algeria.
47- Ông Mathilde, người Pháp và vợ là văn sĩ Tuyết Trần.
48- Người trẻ nhất trong số Việt kiều từ Pháp về dự hội nghị là Nguyễn Mạnh Phát Thomas (30 tuổi) - thạc sĩ công nghệ thông tin tại Pháp. Sau khi tốt nghiệp, trở về SàiGòn làm việc cho IBM VN trên cương vị Giám đốc chương trình, giám sát các dự án phát triển của các công ty lớn của Pháp ở nước ngoài.
49- Kostas Sarantidis có tên Việt Nam là Nguyễn Văn Lập, người Hi Lạp (tự xưng mình là "ông Việt Minh người Hi Lạp"). Nguyên là lính lê dương đào ngũ theo Việt Minh - Cộng sản năm 1946, sau đó gia nhập quân đội cộng sản Việt Nam.
50- James H. Spencer, cha Mỹ mẹ Việt, hiện công tác tại khoa Qui hoạch đô thị, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu toàn cầu hoá thuộc Đại học Hawaii. Bố mẹ James hiện sống ở New York và nhà họ là một trong những nơi mà các quan chức trong Phái đoàn Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc thường lui tới.
52- Nguyễn Hữu Nhiệm, Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Thủ đô Bratislava, Cộng hoà Slovakia.
53- Nguyễn Hạnh Phước, Việt kiều tại Mỹ.
54- Hoàng Đình Thắng, Việt kiều ở Cộng hòa Czech.
55- Bà Nguyễn Thị Thật, Việt kiều ở Pháp.
56- Lê Văn Dinh, Chủ tịch Hội người Việt Nam tại tỉnh Sakeo, huyện A Răn, Thái Lan.
57- Bà Trần Thị Mùi, Phó Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Slovakia.
58- Bà Vũ Thị Thư – Việt kiều ở Cộng hòa Czech.
59- Ông Cao Văn San, Việt kiều Thái Lan.
60- Ông Bùi Ái, Việt kiều Pháp.
61- Ông Hoàng Văn Lộc, Phó Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Vương quốc Anh.
62- GS/TSKH Nguyễn Đăng Hưng, Việt kiều tại Bỉ.
63- Ông Đinh Viết Tứ, Việt kiều Mỹ, sống tại California, và tham gia vào hai đài phát thanh tiếng Việt là đài “Tiếng quê hương” và “Việt Nam ngày nay” tại Mỹ, tuyên bố "Đưa thông tin chính xác về tình hình Việt Nam đến với bà con kiều bào chính là cách giúp bà con hiểu rõ hơn về tình hình trong nước, các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với kiều bào...". Luật sư Đinh Viết Tứ là người đã thành lập đài Tiếng Vọng Quê Hương năm 1996, được khoảng 1 năm thì dẹp tiệm, ông Tứ sau đó chuyển sang cái gọi là chương trình phát thanh Việt Nam Quê Hương, sau đó nhập bọn với sư Việt cộng Thích Pháp Châu là người đã thành lập đài phát thanh Tiếng Quê Hương năm 2003, là tiền thân của nhóm V-LIFE chuyên sản xuất DVD dưới dạng tuần tin Anh-Việt, chuyên quảng cáo và tuyên truyền cho Việt cộng.
64- Bác sĩ Nguyễn Tăng Tri, Việt kiều từ Canada.
65- Nguyễn Như Hà, chuyên ngành Luật tại Đại học Strasbourg, Pháp.
66- Bà Lê Thị Anh Thư - Hội phó Hội Việt kiều Hàn Quốc
67- Ông Hồ Quang Đặng, Việt kiều Mỹ, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Dân trí School Equipment, chuyên cung cấp trang thiết bị cho trường học.
68- Ông Đỗ Trọng Ngọc, Việt kiều Canada, họa sĩ, nhiếp ảnh gia, nhà báo; đã từng có 3 cuộc triển lãm tại Hà Nội, định cư 26 năm ở Vancouver, hiện làm tại báo Người Việt Hải Ngoại.
69- Ông Nguyễn Quốc Cường, Trưởng ban hòa giải cộng đồng người Việt tại Ba Lan.
70- Ông Lê Thanh Bình – Trưởng đại điện hội người Việt Nam tại Ba Lan.
71- TS. Lê Văn Mừng, Phó chủ tịch đầu tiên của hội người Việt Nam tại Ba Lan, nguyên Chủ tịch hội đồng hương Thái Bình.
72- Ông Hồ Chí Hưng, Phó chủ tịch hội người Việt Nam – Ba Lan.
73- Bác sĩ Bùi Duy Tâm, Việt kiều ở San Francisco, Hoa kỳ.
74- Bà Phùng Tuệ Châu, cựu Luật sư, cựu phóng viên của Việt Nam Thống Tấn Xã thời Việt Nam Cộng Hòa, làm việc cho Đài phát thanh Tiếng Quê Hương của Việt Cộng tại Mỹ. Tuyên bố tại Hà Nội: “Mục đích của Đài phát thanh Tiếng Quê Hương là mở rộng thân tình mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ; giới thiệu sự tiến bộ và sự phát triển của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam.” Đài phát thanh Tiếng Quê Hương do sư Việt cộng Thích Pháp Châu thành lập năm 2003. Tiếng Quê Hương là đài phát thanh Internet, có sự hợp tác của Luật sư Đinh Viết Tứ là người đã thành lập đài Tiếng Vọng Quê Hương năm 1996, được khoảng 1 năm thì dẹp tiệm, ông Tứ sau đó chuyển sang cái gọi là chương trình phát thanh Việt Nam Quê Hương, sau đó nhập bọn với Thích Pháp Châu. Nhóm V-LIFE chuyên phát hành DVD dưới dạng tuần tin bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh, là một dạng khác của đài phát thanh Tiếng Quê Hương. Xin đừng lầm lẫn với đài phát thanh Quê Hương chống Cộng.

Kết thúc Lễ Bế mạc, các đại biểu nữ cùng hát vang bài hát "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng". Điều này cho thấy rõ ràng bọn người tham dự đều là cộng sản thứ thật 100%.



Bà Mayer Bùi Thị Thu Minh - Việt kiều Đức


Ông Mathilde, người Pháp và vợ là văn sĩ Tuyết Trần


Mihoubi Yamina, Việt kiều Algeria



Ông Tô Quốc Phú - kỹ sư xây dựng tại Pháp


Bà Nguyễn Thị Thật, Việt kiều tại Pháp

Thứ Tư, 2 tháng 12, 2009

Không Thể Không Nói...

KTS Trần Thanh Vân

TÔI BIẾT GÌ VỀ TRUNG QUỐC?

Lâu nay mọi người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thủy Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên quan đến phong thủy của Kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội mở rộng ngày nay thì họ hay hỏi tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhạy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã hội, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!

Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của Chương trình văn hóa 1000 năm Thăng Long, một nhóm nghiên cứu của Ban khoa giáo Đài truyền hình trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long. Giữa chừng câu chuyện, họ hỏi tôi “Chị nghiên cứu đề tài này lâu chưa?” Tôi lưỡng lự giây lát, rồi trả lời họ: “Khoảng chừng đã 55 năm”

– “Cái gì? 55 năm?”

– “Vâng! từ ngày còn là con bé con”.

Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ.. Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thủy cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lý thuyết.

Sự thật và trải nghiệm

Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ” của tôi với vấn đề Trung Cộng mà tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cứu chiến lược lâu năm có cách nhìn khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng với trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít ai có cơ hội để “hiểu” Trung Cộng hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết.

Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát “Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông / Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị…”; trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung Quốc.

Kỷ niệm thứ nhất: Cải cách ruộng đất năm 1953

Ngày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chịu cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xã ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cứu sống nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng gọi bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông ngoại tôi không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia đình bệnh nhân mang đến tạ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi… Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.

Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nội nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nội. Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm cụi làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đình và bản thân, vừa đóng góp tích cực cho kháng chiến. Tôi còn nhớ bài hát “Áo mùa đông” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó: “Gió bấc heo may / xào xạc rung cây lá lá bay / một mùa đông bao người đan áo…” chính là nói về công việc của mẹ tôi và các chị, các cô trong Hội phụ nữ kháng chiến cứu quốc. Vào những ngày đó, ở vùng tự do nghèo nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sợi bông, nhuộm sợi thành các màu xanh, màu nâu, màu cỏ úa rồi đan thành áo gửi ra chiến trường, đã được ca ngợi như một chiến công lớn.

Nhưng trong CCRĐ thì công cũng thành tội, có một người bạn thân hồi nhỏ của mẹ tôi là Bí thư chi bộ xã đã treo cổ tự tử vì bị truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là trùm Quốc dân đảng đã giết ông Bí thư đó để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được Đội cải cách bôì dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ.

Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì hoảng hốt, vội vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vừa đặt chân đến Chợ Chu – Định Hóa – Thái Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối với một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay mọi người vẫn còn nhớ.

Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hôì đó, người ta bàn tán về hoạt động của các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh giảm tô và đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên khu 4 được chọn làm điển hình.

Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyện cũ, mọi người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.

Kỷ niệm thứ hai: Trời phạt

Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, thì chúng tôi được ném vào “Trận đồ bát quái” của tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô.

Liên Xô thì ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Cộng thì ở ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường dù chưa quen biết là người ta cũng liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Hòa bình lập lại, Chính phủ về tiếp quản Thủ đô, thì trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung Cộng. Còn nhỏ xíu nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung Sơn rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng thình và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Tòa dinh thự hoành tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của người Trung Cộng. Mỗi buổi sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể dục và hô “I, ơ, xan, xư” ầm vang khu phố Cột Cờ.

Ngày đó gia đình tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học đến cấp 2, tôi không thể hiểu nổi những chuyện đã xẩy ra, nhưng tôi có thói quen ghi nhật ký. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ thơ ghi tỷ mỷ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón TW Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi có ghi lại kỷ niệm về một người con gái Trung Cộng tên là Khương Nãi Tuệ, chị ta được tôi tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buổi chiêu đãi Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ do Chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị Văn công Khương Nãi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị – Phủ Tây Hồ.

Khương Nãi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn quàng đỏ do tôi tặng. Cùng chết trong tai nạn đó còn có nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn và hai người nữa.. Mộ của họ mai táng ở nghĩa trang Bất Bạt huyện Ba Vì.

Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì luyến tiếc chiếc khăn quàng đỏ thì ít mà vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới cơn lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên tôi hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm mưu đó đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Cộng và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không sao hiểu nổi thứ tình hữu nghị quái gở gì mà “người bạn lớn thân thiết” lại tìm mọi cách làm hại “đứa em tội nghiệp” vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ?

Mấy chục năm sau, để giải tỏa tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài, trong đó có mấy câu: “Tâm con trẻ hồn nhiên không xấu / Dấu nhà Trời ai thấu được đâu / Một dải khăn đào kết một cái cầu / Để hồ thẳm nước sâu / Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…”.

Du học ở Trung Cộng

Tuổ trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đã có lúc cuốn hút tôi, khiến tôi tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hãi hồi nhỏ.

Năm 1960 tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại học, tôi được cử đi học ngoại ngữ để sang Trung Cộng theo học ngành kiến trúc. Niềm háo hức khiến tôi và các bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được “ăn cơm Bác Mao”, được chăm sóc dạy dỗ ân cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu những món ăn theo ý thích rồi mang đến tận phòng riêng phục vụ tận tình.

Những năm tháng đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng tôi đều được chăm sóc đặc biệt. Học Kiến trúc thì được học vẽ mỹ thuật trong 3 năm đầu, học kỳ nào chúng tôi cũng được thầy giáo là một hoạ sĩ danh tiếng dẫn đi vẽ dã ngoại ở các khu danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số, như các thành phố Hàng Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông họa sĩ già hai bàn tay lấm mầu nhem nhuốc tận tình hướng dẫn chúng tôi cầm bút lông chấm phá các mảng mầu xanh đỏ, còn vợ ông thì đi theo chăm sóc chồng và cần mẫn gọt những trái lê trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học trò chúng tôi. Ngoài ra, những ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng ưu đãi hơn người, riêng tôi vì ham thích âm nhạc nên còn được giữ chìa khoá một căn phòng có chiếc Piano sang trọng để tự do luyện tập. Đó là những thứ mà khi ở nhà với cha mẹ, tôi chưa bao giờ dám mơ tới.

Chưa bao giờ tôi tự đặt cho mình câu hỏi: “Có phải họ đang vỗ béo chúng tôi để sau này về nước chúng tôi sẽ trở thành hạt giống cho họ gieo mầm bành trướng phá hoại đất nước mình hay không?” Chưa bao giờ tôi tự hỏi như thế cả, nhưng trong lòng không thể không gợn lên những thắc mắc vô cớ. Tôi biết Trung Cộng ngày đó còn nghèo lắm, các bạn sinh viên Trung Cộng phải ăn ở chen chúc trong những căn phòng chật chội của ký túc xá, bữa cơm của họ chỉ có chiếc bánh bao không nhân, một bát cháo hoa loãng và vài miếng ca-la-thầu.

Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô bạn người Thượng Hải nữa ở cùng trong một ngôi nhà dành riêng cho giáo viên và trợ giảng. Đó là một tòa nhà 2 tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng các giáo viên nữ, còn tầng một dành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ giảng đại học, nhưng họ còn rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui tới thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc. Hóa ra họ phải nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng tôi. Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan và tiểu đường rất cần bồi dưỡng nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn luôn bị ngất xỉu, thấy vậy tôi hay đi mua thêm các thức ăn mang đến biếu thầy. Chúng tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ 7, khi 2 cô bạn Thượng Hải đã về nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá trên vườn hoa ngồi hóng gió, thì các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm sự, chuyện trò và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và trong xã hội, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn.

Rồi đại loạn đến thật, cách mạng văn hóa nổ ra, đại đa số học sinh trung học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo, cắt tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính mắt chúng tôi được chứng kiến các Giáo sư trong trường đã từng giảng dạy chúng tôi tận tình, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những dòng chữ tục tĩu.

Là một đứa con gái xuất thân trong một gia đình có nền giáo dục truyền thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép học trò đấu tố thầy, hành hạ và sỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước Trung Hoa có truyền thống văn hóa lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất nề nếp và rất có kỷ cương đã hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó. Rất lâu về sau tôi vẫn không thể hàn gắn được vết thương như những nhát chém trong tim mình, về hình ảnh những Giáo sư đáng kính của chúng tôi bị hành hạ lên bờ xuống ruộng bởi chính những người bạn sinh viên đã từng học tập ca hát bên chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy, nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính họ bị lôi ra đấu tố.

Chúng tôi rất sợ bị liên lụy nên nín lặng quan sát và nhìn nhau thầm hỏi: “ Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ thì họ cắn mình đây?”

Đó là giữa năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ ký. Chúng tôi khăn gói vội vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra khỏi trường, một số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng vệ binh ngày ngày đi đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh Trường đại học Đồng Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nhì Trung Cộng, do người Đức thành lập đã gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nổi tiếng Lý Đức Hóa, người từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ Bác sĩ người Đức của ông không biết đã trôi dạt đi đâu? Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước, chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bữa cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ.

Đến lúc đó thì tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực sự hiểu rằng người dân lao động Trung Cộng rất tốt, giới trí thức Trung Cộng cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi không sao hiểu nổi các nhà cầm quyền và thứ “tình hữu nghị” mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên báo chí. Tôi rất muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi.

Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vội vàng như ma đuổi..

Thời kỳ đã trưởng thành

Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm quên đi những cảm giác khó chịu của những ngày cuối cùng sống trên đất Thượng Hải. Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận công tác ở Bộ Kiến trúc, chúng tôi đã được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và sớm thích nghi với khẩu hiệu “Ba sẵn sàng” của thanh niên thời chiến.

Sau đó, mỗi người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên.

Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. Còn đêm đến, khi ngồi tư lự một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký ức thời trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm.

Lúc này đã đủ lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi không thể nói ra với ai. Tôi ở cùng nhà với một chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về, chúng tôi quý nhau và luôn giúp đỡ nhau, còn “Liên Xô xét lại” và “Trung Cộng giáo điều” thì mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy bay Mic bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống đói.

Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự lý giải rằng sự cố đã xẩy ra là do sự quá đà của một nhóm người hãnh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với bạn học cũ, nhưng tôi theo dõi và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của một đất nước đã nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi những tưởng tình hình sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xẩy ra cuộc tấn công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để “Cho Việt Nam một bài học”. Không chỉ có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nội bộ của Sự kiện Thiên An Môn cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những người cầm đầu nhà nước Trung Cộng thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ vì tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời Trung cổ của họ mà thôi.

Trung Quốc hôm nay?

Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng biết Trung Cộng đã thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung Cộng đại nhảy vọt mà họ đang ra sức quảng bá, vẫn còn có một Trung Cộng khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung Hoa đã từng bị chà đạp, bị sỉ nhục và chịu nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào.

Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đổi rất nhiều. Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng Tế tân thôn” bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp chướng” nói về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi. “Nghiệp chướng” là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình trí thức để rồi đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói vơí tôi: “Tôi từng là Hồng vệ binh và đang là nạn nhân của Hồng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay”.

Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đã dành ra gần 2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Cộng hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa nói, còn lớp người Trung Cộng thứ ba đang vừa là chỗ dựa vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung Cộng: Bọn này đông lắm. Đó là lũ lưu manh mạnh vì gạo bạo vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đã từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa” để đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nữa hoặc không sử dụng được nữa thì họ tiêu diệt “chỗ dựa” đó đi.

Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trịnh Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ tứ trụ” điều khiển gần một tỷ dân. Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời nay có các băng đảng lưu manh kết hợp với công an và chính quyền hình thành hệ thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vừa qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót 2000 tên, trong số đó có cả Giám đốc Sở Tư pháp và nhiều sĩ quan công an.

Cuôí cùng, có thể quan sát “Trung Cộng hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người Trung Cộng đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều với vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát quá hoặc vì đã là tội phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc đời phá phách, trộm cắp, lừa đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực lượng nằm vùng nội ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.

Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu.

TÔI HIỂU GÌ VỀ TRUNG QUỐC?

Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nội bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta, tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cứu các lý thuyết về phong thủy địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955 tôi đã “không may” bị tận mắt chứng kiến.

Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc sử dụng chữ gốc La-tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ XVI-XVII như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ XIX để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ XX là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine. Cám ơn các vị Giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ XX đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong thủy, Địa mạch và Kinh Dịch.

Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thủy địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Cộng rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền thèm muốn chứ không phải nhân dân, bởi vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Cộng không hề được hưởng lợi.

Hệ Địa mạch nước Trung Hoa: Chiếc bánh sandwich

Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich


Nước Trung Hoa hình quẻ chấn

Theo phân tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của KTS Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gãy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.

Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình chiến tranh và đồng hóa lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO” và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân.. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao… đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giàu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đàn áp ở ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.

Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được điểm yếu cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya qua cao Tây Tạng, qua nguyên Vân Nam, qua đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống vịnh Hạ Long rôì đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở vịnh Mindanao Philippin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó, không cho nó trôi trượt đi, mà họ còn có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.

* Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hóa thì nhiều).

* Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và hủy diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung Cộng sẽ không thể đạt được cái họ muốn (Tây Tạng).


Cung điện Tây Tạng Potola

Còn ở Việt Nam chúng ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm” đây là chỉ giặc Phương Bắc, bởi vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có. Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những những nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền… Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?

Địa mạch Việt Nam: Khúc quan trọng trong địa mạch toàn cầu

Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dãy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, tỏa ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng Kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền tấu thư kiểu tự là một trong những kết quả tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài giỏi gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đường Y Tông yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La, mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội.. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.

Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo từ phía Tây qua Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.

Địa mạch Việt Nam: Vùng Biển Đông, yết hầu của Đông Nam Á

Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có vịnh Bái Tử Long, và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng…, cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xòe ra ở đồng bằng Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc vịnh Mindanao thuộc Philippin. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước Trung Quốc không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không ?

Địa mạch Việt Nam: Cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh

Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu / Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.


Núi chầu sông tụ Thăng Long theo hình thế Âm Dương

Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi đồng Bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ XVI trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình..

LỜI CUỐI BÀI

Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ vơí Trung Cộng hiện nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏi cõi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Cộng. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dạy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dạy bảo của cha ông.

Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở họ và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?

Đông dân là một sức mạnh

Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Cộng mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.

Trong thế vận hôị 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động Tổ Chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.

Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân… tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để dọa nạt chúng ta và các nước trong vùng,

Mô hình hàng không mẫu hạm ở vũ Hán

Có điều, một thảm họa đông dân mà Nhà nước không vì dân thì Nhà nước sẽ khốn đốn. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thâm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu… đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.

Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?

KTS Trần Thanh Vân